HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Tìm hiểu ý nghĩa Kinh "Tâm Hoang Vu"

29 Tháng Mười 20197:12 CH(Xem: 5010)

Tìm hiểu ý nghĩa Kinh "Tâm Hoang Vu"

Thích Nữ Hằng Như

-------------------------------------------------------

         

          Kinh "Tâm Hoang Vu"bài kinh thuộc loại vô vấn tự thuyết, Đức Phật giảng cho các vị Tỷ-Kheo tại vườn ông Cấp-Cô-Độc, rừng Kỳ-Đà, thành Xá-Vệ (Savatthi). Nội dung nhằm xách tấn các đệ tử xuất gia nếu muốn tiến bộ, lợi lạc trong đời sống tu học, thì phải đoạn trừ "năm tâm hoang vu""năm tâm triền phược". Hai loại tâm này gây chướng ngại cho công phu tu tập "Tứ Thần Túc", cản trở sự phát triển trí tuệ tâm linh. Bài kinh này là bài kinh thứ 16 được đăng lại trong Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikàya).

          Theo lời dạy của Đức Phật, người có "năm tâm hoang vu" là người có năm trạng thái tâm: 1) Nghi ngờ Phật. 2) Nghi ngờ Pháp. 3) Nghi ngờ Tăng. 4) Nghi ngờ các học giới do Phật thiết lập. 5) Bất mãn, chống đối, không hoan hỷ đối với các vị đồng Phạm hạnh. Người có "năm tâm phiền trược" là người có tâm bị trói buộc, dính mắc bởi: 1) Mong cầu, khao khát với các dục vọng. 2) Tham ái, say đắm với tự thân mình. 3) Tham ái, say đắm với sắc pháp bên ngoài thân. 4) Ham ăn, mê ngủ. 5) Sống Phạm hạnh nhưng lại dính vào hữu lậu, mong cầu được sanh về cõi Trời nào đó...

          Tỷ-Kheo nào không dính vào 10 sự kiện trên, tâm vị ấy sẽ hướng đến sự chuyên cần, nỗ lực, tinh tấn tu tập thiền Định... thì vị ấy mới có thể lớn mạnh trưởng thành trong giáo pháp giác ngộ của Đức Phật.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH

"Như vầy tôi nghe:

Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp-Cô-Độc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này chư Tỷ-kheo", - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp và Luật này, sự kiện này không xảy ra.

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA:

- Hoang vu (Khila): Là tiếng tỉnh từ, chỉ trạng thái mênh mông, trống trải, không được chăm sóc, cây cỏ mọc tự nhiên. Thí dụ như: "Rừng rậm hoang vu" hay "Nơi đó còn hoang vu chưa được khai thác"

- Tâm hoang vu (Cetokhila): Ám chỉ tâm một người thiếu vắng niềm tin, phân vân, do dự, không định hướng... do đó không thực hiện được bất cứ một nỗ lực nào để đạt mục tiêu giải thoát.

- Tâm triền phược: Triền là xoáy vòng, quay mồng mồng, không tiến được về phía trước. Phược là nặng nề, trói buộc, dính mắc. "Tâm triền phược" là tâm bị trói buộc, dính mắc bởi những ham muốn khi 6 căn tiếp xúc với 6 trần. Những dính mắc này cản trở sự phát huy trí tuệ, không đưa đến giác ngộ giải thoát.

- Trưởng thành: Đạt đến một sự toàn thiện, hoàn hảo trong quá trình phát triển của mỗi con người.

- Hưng thịnh: Phát triển, thịnh vượng, nổi lên, vươn lên. Trái ngược với suy tàn, suy vong.

- Pháp: Dịch từ tiếng Phạn là Dhamma (Pàli), Dharma (Sanskrit). Pháp có hai nghĩa. Khi xử dụng như danh từ số nhiều thì nó có nghĩa là hiện tượng thế gianvạn pháp. Nếu là số ít thì Pháp là một trong ba ngôi báu: Phật, Pháp, Tăng gọi chung là Tam Bảo. Pháp này là tập hợp những lời dạy của Đức Phật về Giới-Định-Huệ để đưa đến giác ngộ, giải thoát.

- NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY: Đức Phật khuyến cáo những vị Tỷ-Kheo nào chưa đoạn trừ được "năm tâm hoang vu""năm tâm triền phược" thì con đường tu tập của vị ấy sẽ dậm chân tại chỗ không thể phát triển, để đạt được mục tiêu giác ngộ giải thoát.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH

Thế nào là năm tâm hoang vu chưa được đoạn trừ?  Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Đạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị nầy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất chưa được diệt trừ.

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA:

- Nghi ngờ: Ngờ vực, chưa tin hẳn vào một điều gì.

- Do dự: Chưa quyết định dứt khoát,

- Đạo Sư: Là vị Thầy dạy đạo, truyền pháp. Đạo Sư ở đây là Đức Phật.

- Quyết đoán: Quyết định nhanh, dứt khoát, mạnh mẽ để giải quyết vấn đề nào đó.

- Tịnh tín: Niềm tin trong sạch, sâu sắc.

- Nỗ lực: Cố gắng hết sức mình để làm một việc gì có tính cách khó khăn và gặp nhiều trở ngại.

- Chuyên cần: Chăm chỉ, siêng năng làm việc, trái với lười biếng.

- Kiên trì: Là sự bền bỉ, nỗ lực, cố gắng không ngừng nghỉ, quyết tâm vượt qua mọi thử thách theo đuỗi mục tiêu mà mình đã đề ra.

- Tinh tấn: Tinh là tinh chuyên, thuần nhất, không xen tạp. Tấn là tiến về phía trước không thối lui. Tinh tấn là lúc nào cũng chuyên tâm nhất trí cố gắng không ngừng để đạt được mục đích một cách toàn thiện tốt đẹp.

-  NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY: Vị Tỷ-Kheo không vững lòng tin vào Đạo Sư của mình nên vị ấy do dự, không quyết định dứt khoát trong vấn đề tu tập. Tâm vị ấy không hướng đến sự chuyên cần, tinh tấn, nỗ lực, kiên trì. Đây là trạng thái "tâm hoang vu thứ nhất" trong số năm tâm hoang vu chưa diệt trừ, mà Đức Phật đã đề ra.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai chưa được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Tăng, do dự không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Tăng, do dự, không quyết đoán, không tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba chưa được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa được diệt trừ.

B. NỘI DUNG 3 ĐOẠN KINH TRÊN:
Tỷ-Kheo nghi ngờ Pháp, nghi ngờ Tăng, nghi ngờ học giới của Đức Phật thiết lập nên do dự, không quyết tâm hướng đến sự chuyên cần, tinh tấn, nỗ lực, kiên trì trong pháp học và pháp hành. Đức Phật cho rằng những vị này bị "ba tâm hoang vu" trói buộc. Do đó sẽ không thể nào kinh nghiệm thoát khổ giác ngộ giải thoát.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ đối với các đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa được diệt trừ.

Như vậy là năm tâm hoang vu chưa được diệt trừ."

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA

- Phẫn nộ: Tức giận, không kiềm chế được.

- Phạm hạnh: Đời sống trong sạch, thanh tịnh của người xuất gia. Suốt đời hành giả nghiêm túc giữ giới, phòng hộ các căn, nuôi mạng thanh tịnh, chánh niệm tỉnh giác, tinh cần thanh lọc tâm, nhằm phát huy tuệ giác, phá tan chấp thủ ngũ uẩn. Nhờ những yếu tố thanh tịnh đó hỗ trợ nguyên tắc tu tập "Giới-Định-Huệ" đi đến thành tựu giải thoát.

- Tăng (hay Ni): Là người rời xa cuộc sống gia đình, xin gia nhập làm thành viên Tăng già hay Tăng đoàn, là đệ tử của Đức Phật để tu học theo giáo pháp của Ngài. Họ giữ Giới và sống chung với nhau trong tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái, hài hoà. Bên cạnh Phật và Pháp, thì Tăng già (bao gồm Tăng và Ni) là một trong ba ngôi Tam Bảo của Phật giáo.

   - NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY: Tỷ-Kheo nghi ngờ Phật, nghi ngờ Pháp, nghi ngờ Tăng, nên không nỗ lực học tập, không nỗ lực hành trì, không phòng hộ các căn, không tinh cần thanh lọc thân tâm... nên mới dễ phẫn nộ sân hận đối với bạn đồng tu. Đây là "tâm hoang vu thứ năm" chưa đoạn tận.

 

ĐÚC KẾT "NĂM TÂM HOANG VU" LÀ GÌ?

 Đức Phật nêu lên "năm loại tâm hoang vu". Bốn tâm đầu thuộc Nghi (Si) và tâm thứ năm thuộc Sân. Tâm hoang vu thứ nhứt, thứ hai, thứ ba, thứ tư... là bốn trạng thái tâm nghi ngờ không tịnh tín đối với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng và cũng không tin vào các học giới do Đức Phật thiết lập. Tâm hoang vu thứ thứ năm, là tâm Sân, chống đối, phẫn nộ, không hoan hỷ, không hài hoà với các bạn đồng tu. Vì không tin tưởng vào Tam Bảo, không tin vào các phương thức tu học, lúc nào cũng khó chịu bực tức với các bạn đồng tu, nên đưa đến tình trạng biếng nhác, lơ là trên con đường tu tập. Đức Phật xác định những ai không hướng đến nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn trong Pháp học, Pháp hành, thì "tâm hoang vu" của người đó chưa được đoạn trừ, đồng nghĩa là người đó không thể lớn mạnh, tiến xa và trưởng thành trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

LÀM SAO “KHẮC PHỤC TÂM HOANG VU”?

Muốn tiến bộ trên con đường tâm linh đưa đến giác ngộ, giải thoát. Hành giả nên thường xuyên quan sát xem tâm mình có bị rơi vào tình trạng hoang mang, trống trải, nhàm chán, đánh mất niềm tin, đánh mất phương hướng. Từ đó, không còn nhiệt tâm theo đuổi lý tưởng giác ngộmục tiêu cao quý mà hành giả đã phát nguyện lúc ban đầu. Hành giả phải tự mình phát hiện trạng thái tâm mất thăng bằng, mất bình ổn này để kịp thời khắc phục.

Trong kinh, Đức Phật đã nêu rõ 5 lý do khiến người xuất gia bị rơi vào tình trạng tiêu cực trên. Đó là nghi ngờ Phật, nghi ngờ Giáo Pháp giác ngộ của Ngài, nghi ngờ đoàn thể Tăng già thanh tịnh hoà hợp, nghi ngờ các học giới do Đức Phật thiết lập, nghĩa là nghi ngờ các thiện pháptỏ ra bực tức với chư vị đồng Phạm hạnh, thì vị này đã rơi vào trạng thái "tâm hoang vu", hoàn toàn mất phương hướng, không còn tha thiết tu tập để đạt mục tiêu thoát khổ nữa.

Phật tử tại gia hay xuất gia, xưa nay mọi người đều xem Phật, Pháp, Tăng là biểu tượng cao quý, vì ba ngôi Tam Bảo này tiêu biểu cho lý tưởng thoát khổ, giác ngộ, giải thoát. Họ quy ngưỡng cung kính ba ngôi Tam Bảo vì họ tin rằng Đức Phật là người đã chứng ngộ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Suốt 45 năm dài Thế Tôn đã lặn lội khắp nơi hoằng pháp, với mục đích giúp chúng sanh được thoát khổ giác ngộ giống như Ngài. Cho nên ngôi báu thứ nhất chính là Phật bảo. Lời giảng dạy của Đức Phật nhằm giúp chúng sanh hoàn thiện cuộc sống và phát triển tâm linh được xem là Pháp bảo. Còn chư Tăng là các thánh đệ tử của Đức Phật đã lìa bỏ gia đình, xuất gia theo Đức Phật tu hành. Họ sống chung với nhau trong một đoàn thể hài hoà thanh tịnh gọi là Tăng già. Ngày nay Đức Phật không còn ở thế gian này nhưng Tăng già vẫn còn, đó là chư Tăng Ni, tiếp tục duy trì học Phật và phổ biến pháp Phật để độ chúng sanh, cho nên họ chính là Tăng bảo.

Một người xuất gia theo Đạo Sư để tu học, mà không tịnh tín nơi bậc Đạo Sư của mình, cũng không tin nơi giáo pháp của Đạo sư mình, lại còn không vui vẻ hài hoà khi sống chung trong tập thể, thì người đó làm sao còn tâm trí để học hỏihành trì những học giới của vị Đạo Sư đó thiết lập, nói chi là nỗ lực chuyên cần hay kiên trì tinh tấn!

- Để không bị rơi vào tình trạng nghi ngờ nêu trên, Đức Phật vẫn thường khuyên mọi người trước khi quyết định điều gì phải có Chánh KiếnChánh Tư Duy thật rõ rồi mới quyết định. Người muốn xuất gia cầu đạo cũng không ngoại lệ. Phải đến để thấy, để nghe, để có Chánh kiếntư duy một cách đúng đắn rõ ràng về Phật, Pháp, Tăng. Khi Chánh kiến có mặt thì tâm Nghi biến mất. Tâm Nghi biến mất, hành giả sẽ tin tưởng vào Phật Pháp Tăng, sẽ chuyên cần với pháp học và pháp hành.

- Bài kinh "Các Lễ Uposatha" (Bố Tát Trai Giới), trong Tăng Chi Bộ Kinh. Đức Phật đã giảng "niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới" như là phương tiện giúp người xuất gia cũng như cư sĩ tại gia giữ được tâm thanh tịnh, trưởng dưỡng niềm tịnh tín đối với Tam Bảo, nguyên văn như sau: (*)

- "Đây là Như Lai, bậc Ứng cúng A-La-Hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ. Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Do vị ấy niệm Như Lai, tâm vị ấy được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận". - Như Lai: Nhưbất động, bất biến, không thay đổi. Lai có nghĩa là đến. Như Lai nghĩa là người đến với cuộc đời nhiều sóng gió đau khổ, để thực hiện nhiều thiện hạnh lợi ích giúp chúng sanh, nhưng người đó lúc nào an trụ trong tâm bất động. Tâm đó gọi là Tâm Như. - Ứng Cúng: Ứngtương ứng, Cúngcúng dường phẩm vật. Bậc Ứng Cúngdanh hiệu tôn xưng những vị đã sạch lậu hoặc, phiền não... xứng đáng được thọ nhận cúng dường. - Chánh đẳng giác (hay Chánh biến tri): Cái biết cao tột chân chính. Cái thấy biết như thật về vạn pháp trùm khắp vũ trụ. Đây là khả năng của một bậc Đại Giác Ngộ, bằng tuệ giác Bát Nhã thấu triệt thật tướng của vũ trụ vạn loài. - Minh Hạnh Túc: Minh nghĩa là trí tuệ, trí đức. Hạnh công hạnh độ sanh còn gọi là hạnh đức. Túc là đầy đủ. "Bậc Minh Hạnh Túc" là bậc Đạo sư đầy đủ trí tuệphúc đức. Đức Phật có khả năng thấu suốt được tất cả chân lý, sự thật. Từ trí tuệ đó, Ngài chia sẻ giáo pháp, giúp đỡ chúng sanh. - Thiện thệ: Thiện là khéo. Thệ là đi qua. Đức Phật là bậc Đại Giác Ngộ đã khéo qua bờ bên kia tức bờ giải thoát. Ngài không còn bị chi phối bởi quy luật sanh tử. - Thế gian giải: Là bậc trí tuệ siêu việt, hiểu thấu mọi vấn đề thế gian. Đức Phật tuy sống trong môi trường thanh tịnh của người xuất gia nhưng đối với đời sống thế gian, Ngài đã từng giảng dạy cho giới cư sĩ tại gia thuộc mọi giai cấp trong xã hội từ bậc vua chúa đến người dân. Như cách sống trong gia đình của người làm cha mẹ, vợ chồng, con cái, dâu, rễ, bạn bè.... Như cách cai trị thần dân của bậc vua chúa hoặc đường lối ngoại giao với các nước láng giềng v.v... - Vô thượng sĩ: Vô thượng là người hiểu biết cao tột không ai sánh bằng. Là bậc trí tuệ toàn giác, thấu đạt vạn pháp. Danh hiệu này chỉ dành tôn xưng Đức Phật. - Điều Ngự Trượng Phu: Điều ngựchế ngựđiều phục. Trượng phu về hình tướng chỉ người nam. Về nội dung nói chung là người có tâm hồn quảng đại, là vị có đầy đủ đại trí, đại bi, đại hùng... Là người sẵn sàng xả thânđại nghĩa, có khả năng chế ngựđiều phục những khó khăn, để cứu độ quần sanh.- Thiên nhân sư: Có nghĩa là bậc Đạo Sư của cõi Trời Dục giớiCõi Người. Những cõi khác như Địa ngục, Ngạ quỹ, Súc sinh, Atula do nghiệp chướng không đủ trí tuệ để hiểu được giáo pháp của Ngài. Trong kinh có kể, Đức Phật thường hoá thân lên các cõi Trời thuyết pháp cho chư Thiên. Ở thế gian, những pháp hội giảng cho chúng Tỷ-Kheo và cư sĩ cũng thường có chư Thiên hiện diện để bảo hộ Ngài và cùng thính pháp. - Phật, Thế Tôn: Phật nguyên ngữ tiếng Phạn là Buddha, Trung Hoa phiên âm là Phật Đà, dịch nghĩa là Giác Giả tức Bậc Giác Ngộ. Danh hiệu Thế Tôn, Thế là thế gian, tôn là cao quý. Thế gian tôn kính Ngài là một bậc cao quý, bởi các năng lực tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

- "Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu". Do vị ấy niệm Pháp, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận". Những bài pháp Đức Phật thuyết giảnggiá trị vượt thời gian không gian, tuỳ căn cơ của mỗi chúng sanh có thể lãnh hội, tu tập, hành trì... đạt kết quả giải thoát.

- "Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tayphước điền vô thượng ở đời." Do vị ấy niệm Tăng, tâm vị ấy tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của Tâm được đoạn tận". Chúng Tỷ-Kheo đệ tử của Đức Phật là những người luôn làm những việc lành, việc tốt, lợi mình lợi người. Họ là người chánh trực, thẳng thắn, tu tậptrí tuệ, tự độ và độ tha, tức là "bốn đôi tám chúng". Chúng đệ tử của Phật tu tập theo bốn cấp độ: 1) Bậc tuệ tri con đường ngược dòng (Tu-Đà-Hoàn đạo), 2) Bậc tu tập chứng quả ngược dòng (đạt quả Tu-Đà-Hoàn trong kinh gọi là quả Nhập Lai hay Dự Lưu). 3) Bậc tuệ tri con đường trở lại một lần (Tư-Đà-Hàm đạo), 4) Bậc chứng được quả trở lại một lần (đạt quả Tu-Đà-Hàm trong kinh gọi là quả Nhất Lai), 5) Bậc tuệ tri con đường không trở lại ( A-Na-Hàm đạo). 6) Bậc chứng được quả không trở lại (quả A-Na-Hàm). 7) Bậc tuệ tri con đường A-La-Hán (Arahatta-magga). 8) Bậc chứng quả A-La-Hán.   (**)

Đệ tử của Đức Phật là những người như thế, nên đáng được cung kính, đáng được cúng dường...  chính họ là phước điền cao quý ở đời này.

Ngoài ra Đức Phật cũng khuyên các Tỷ-kheo đừng quên niệm Giới: "Không bị phá hoại, không bị đâm cắt, không bị nhiễm ô, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được người trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến Thiền Định". Vị ấy nhờ niệm Giới, tâm được tịnh tín, hân hoan sanh khởi, các phiền não của tâm được đoạn tận.

Tóm lại, nhờ pháp "Quán Niệm Phật, Pháp, Tăng và Giới Luật" sẽ giúp hành giả sớm thoát khỏi "tâm hoang vu" mà hạ quyết tâm chuyên cần học tập, tinh tấn hành trì giáo pháp của Đức Phật theo con đường Giới-Định-Huệ. Từ đó mới có thể kinh nghiệm được trạng thái an lạc hân hoan trong cuộc sống của người xuất gia.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH (tiếp theo)

"Thế nào là năm triền phược chưa được đoạn tận?

Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất chưa được đoạn tận.

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA

- Dục: Ham muốn, mong cầu

- Ái luyến: Yêu thương, nhung nhớ, quyến luyếntính cách vị kỷ.

- Khao khát: Thèm thuồng, mong muốn có được.

- Khát ái: Giống như khao khát

- Tham ái: Mong muốn có được giống như khát ái nghiêng về dục vọng.

- Nhiệt tình: Sốt sắng, hăng hái làm việc gì.

- NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Tỷ-Kheo có lòng tham ái, khát ái, khao khát, nhiệt tình đeo đuổi, ham muốn điều gì đó...  mà quên việc nỗ lực, chuyên cần, tinh tấn trong việc tu học của mình thì người đó bị "tâm phiền trược thứ nhất" trói buộc.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải không tham ái, không phải dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ hai chưa được đoạn tận.

B. NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Đối với "tự thân" tức thân tâm của mình thì khởi lòng thương yêu, luyến ái, chiều chuộng phục vụ nó. Muốn thân mình được sung sướng chứ không chịu khổ. Muốn đẹp không muốn xấu. Muốn khoẻ chứ không muốn bệnh, cũng như muốn sống hoài chứ không muốn chết. Vì bận lo trau chuốt tấm thân nên tâm không hướng về nỗ lực tinh tấn tu hành. Đức Phật xếp người này đang bị "tâm triền phược thứ hai" trói buộc.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Và lại nữa chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ ba chưa được đoạn tận.

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA:

- Sắc pháp:  Hiện tượng thế gian trong đó có con người. Sắc pháp gồm 11 món: 5 căn và 6 trần.

- NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Đối với "sắc pháp" là những hiện tượng trên thân và ngoài thân, những gì mà giác quan tiếp xúc như: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là 6 trần, hay tài, sắc, danh, thực, thuỳ là ngũ dục thế gian. Khi tiếp xúc với những thứ này Tỷ-Kheo không dằn được lòng tham ái, khát khao, cầu mong có được nên tâm trí không còn hướng đến nỗ lực kiên trì tu học pháp giải thoát. Đức Phật nói rằng những người này bị "tâm triền phược thứ ba" trói buộc.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỳ-kheo nào ăn cho đến thoả thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc sàng toạ, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thuỵ miên. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thoả thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc về sàng toạ khoái lạc về ngủ nghỉ khoái lạc về thụy miên, tâm vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm phiền trược thứ tư chưa được đoạn tận.

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA:

- Thoả thê (Thoả thuê):  Bằng lòng, thoả mãn.

- Khoái lạc: Sảng khoái, thích thú. Sự vui sướng thoả mãn.

- NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY: Ham ăn cho tới no nê, cho tới bụng chứa đầy, bao tử không còn chỗ chứa mới thoả mãn. Ăn no rồi thì buồn ngủ, khoái ngủ, không còn tỉnh táo hướng đến nỗ lực chuyên cần tu tập. Người này bị "tâm phiền trược thứ tư" trói buộc.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này sẽ được làm chư Thiên này hay chư Thiên khác", tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm chưa được đoạn tận.

Như vậy là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận.

B. NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Người xuất gia, sống đời Phạm hạnh... chỉ với mong cầu sau khi thân hoại mạng chung được sanh về cõi Trời, cõi Phạm Thiên nào đó...  Nuôi dưỡng tâm mong cầu như vậy, nên không chịu nỗ lực chuyên cần học Pháp và hành trì để khai mở trí huệ đi đến thoát khổ giác ngộ giải thoát. Đức Phật xếp tâm này là "tâm phiền trược" thứ năm.

Những vị Tỷ-Kheo nào vướng phải "năm tâm phiền trược" cũng như "năm tâm hoang vu" thì không thể nào hưng thịnh tiến xa trong sự nghiệp tu tập pháp giác ngộ giải thoát của Đức Phật.

 

LÀM SAO ĐOẠN TẬN "NĂM TÂM PHIỀN TRƯỢC”? 

Đức Phật mô tả "năm trạng thái tâm phiền trược" trong bài kinh này nhằm vạch trần tâm khao khát tham dục của người xuất gia đối với các dục, đối với tự thân và sắc pháp bên ngoài. Người tu giải thoát cần phải đoạn tận "tâm phiền trược" này thì mới có khả năng tiến xa trên con đường tu học.

- Muốn ngăn ngừa tình trạng tham ái, đắm say dục vọng nêu trên, hành giả phải luôn luôn làm mới lại "lý tưởng xuất gia" của mình. Hãy luôn nhớ nguyên do nào Đức Phật rời bỏ cung vàng điện ngọc, sống đời không nhà không cửa, để cầu tìm pháp tu thoát khổ giác ngộ giải thoát. Hãy nhớ nỗi khổ lớn nhất của đời người là sinh, già, bệnh, chết. Con người có ai thoát khỏi sầu, bi, ưu, khổ, não. Vì muốn thoát ra khỏi bộc lưu đau khổ này mà mình đã từ bỏ đời sống gia đình, xin theo học pháp giác ngộ của bậc toàn giác?

- Hãy luôn nhớ lời Đức Phật đã từng nói, để áp dụng cho chính bản thân mình: "Đời sống tại gia chật hẹp, nhiễm đầy bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì nếu ta sống ở gia đình có thể thực hành đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, khoác áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình". Đã chọn đời sống xuất gia thì nên nhớ nghĩ thường xuyên như vậy, để nuôi dưỡng ý chínghị lực hầu vượt qua những cám dỗ nguy hại của tham dục, khi định lực của mình chưa được vững chắc.

- Phải thường quán cái thân ngũ uẩn này, biết rằng nó không thực sự thuộc về mình. Nó muốn khoẻ giờ nào là nó khỏe. Nó muốn ốm đau giờ nào cũng là tự thân nó ốm đau. Mình, hay ta, hay ngã không thể nào điều khiển nó. Do đó mình cần "nhận thức rõ ràng tính chất vô thường, khổ, vô ngã của tự thân cũng như những thứ vật chất ngoài thân", để không bị các thói quen tham dục ích kỷ của "cái Ta" chi phối.

- Phải biết đời sống của con người hữu hạn, mà thời gian thì không chờ đợi ai. Đã là người xuất gia thì không thể sống buông lơi mặc cho dục vọng chiếm cứ tâm mình. Phải hết sức kiên trì nỗ lực học tập và thực hành theo lời dạy của Đức Phật để sớm phát triển Tuệ Quán.

- Một phương thức khác có khả năng chế ngựdiệt trừ tâm phiền trược đó là thực hành Pháp Như Thật (Yatha Bhùta). Phương thức này giúp hành giả kinh nghiệm được Tuệ tri Như Thật qua giác quan. Giác quan tiếp xúc với hiện tượng thế gian như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Đối tượng như thế nào nhìn thấy, nghe, xúc chạm y như vậy. Khi đó tâm hoàn toàn yên lặng, bình thản. Tâm xúc cảm cũng yên lặng. Nhờ vậy mà tiêu diệt được lòng tham dục.

Tóm lại, dục vọng là sợi dây trói buộc khiến con người chịu nhiều đau khổ hơn là hạnh phúc. Đối với người xuất gia, dục vọng là cánh cửa vô minh nhốt hành giả trong căn nhà lửa khổ đau. Hành giả cần phải đoạn tận tham dục mới có thể đi trên con đường tu học giải thoát của Đức Thế Tôn. Ngày xưa Đức Phật đã tự thắng mình, vượt thoát khỏi tham dục về tài, sắc, danh, thực, thuỳ... bằng lý trí, bằng lòng kiên nhẫn, bằng sự kiên trì sống khổ hạnh suốt 6 năm dài trong rừng sâu.

Đức Phật kể lại rằng nhờ "ly dục ly bất thiện pháp" mà trong tầng định thứ nhất tức sơ thiền, Ngài kinh nghiệm được sự hỷ lạc toàn thân. Sau đó nhờ tâm định vững chắc, mà sự hân hoan hỷ lạc này tràn ngập đẳm ướt khắp châu thân. Như vậy Thiền Phật Giáo có khả năng tạo niềm hân hoan hỷ lạc cho hành giả, đối trị với những thú vui khoái lạc, những ham muốn dục vọng thấp hèn của thế gian.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

"Thế nào là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ?

 Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo không nghi ngờ bậc Đạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Đạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất đã được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên) .... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai đã được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Tăng, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên) .... Nếu tâm ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba đã được diệt trừ.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ học pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư đã được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm đã được diệt trừ.

Như vậy là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ.

B. NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:  
Đức Phật giảng những vị Tỷ-Kheo nào có lòng tịnh tín nơi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Họ sống vui vẻ hài hoà trong Tăng đoàn và hướng tâm nỗ lực chuyên cần tinh tấn, kiên trì trong vấn đề tu học theo đúng với đường lối Đức Phật đưa ra như: Giới-Định-Tuệ, thì những vị này theo nhận xét của Đức Phật đã đoạn trừ được "năm tâm hoang vu".

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

"Thế nào là năm tâm triền phược đã được đoạn tận?

Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái, tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không có tham ái, không có dục cầu, không có luyến ái, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái.... (như trên) ... tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ hai đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không có tham ái, không có dục cầu, không có luyến ái, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái... (như trên)... tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ ba đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không ăn đến thoả thê, cho đến bụng chứa đầy, sống không thiên nặng về khoái lạc sàng toạ, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thuỵ miên... (như trên)... tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ tư đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh là chư Thiên này hay chư Thiên khác" tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm đã được đoạn tận.

Như vậy là năm triền phược đã được đoạn tận.      

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã đoạn tận năm tâm triền phược này, thời vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp và Luật này, sự kiện này có thể xảy ra.

B. NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Đức Phật giảng các vị Tỷ Kheo nào đối với các dục, tự thân, sắc pháp không tham ái, mong cầu, nhiệt tình, khao khát. Đối với vấn đề ăn, ngủ không tham đắm mê say. Không dựa vào khổ hạnh hay giữ gìn Phạm hạnh, để mong cầu tái sanh về cõi Trời... Ngược lại, các vị ấy chuyên cần, nỗ lực, tinh tấn tu học phát triển trí huệ đi đến giác ngộ giải thoát, thì các vị đó đã đoạn tận "Năm Tâm Phiền Trược".

Các vị Tỷ-Kheo diệt trừ "Năm Tâm Hoang Vu", đoạn tận "Năm Tâm Phiền Trược" nỗ lực tu hành, thì mới mong đạt được sự lớn mạnh, trưởng thành và hưng thịnh trong sự nghiệp tu học của mình, đồng thời mới thực sự có đời sống thanh thản, an vui cùng với bạn đồng tu quanh mình.

 

A. NGUYÊN VĂN KINH

"Vị này tu tập như ý túc câu hữu dục Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tâm Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tư duy Thiền định, tinh cần hành; với nỗ lực là thứ năm.

B. TÌM HIỂU Ý NGHĨA

- Như Ý Túc: "Như ý" là được như ý mình mong muốn. Túc có nghĩa là "chân", "nương tựa" hay "đầy đủ".

- Tứ Như Ý Túc: Là 4 pháp hay 4 phương tiện nền tảng giúp hành giả thành tựu mỹ mãn các công đức thiền định (Samàdhi) theo ý muốn của mình.

- "Tứ Như Ý Túc" còn gọi là "Tứ Thần Túc”, “thần" có nghĩa là "thành tựu đặc biệt, sự linh diệu thù thắng" hay là "thần thông". Nói chung muốn thành tựu công đức thiền định hành giả cần nương tựa vào 4 phương tiện này.

Bốn Như Ý Túc đó là: (***)

1) Dục Như Ý Túc: Dục ở đây có nghĩa là "nhiệt tâm, hăng hái, mong muốn" một cách thiết tha thành tựu pháp tu thiền định, chứng các Thánh quả (Tu-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán), thoát khỏi biển khổ luân hồi sanh tử. Sự mong muốn này mạnh mẽ cho tới khi nào đạt được mục đích mới thôi.

2) Tinh tấn Như Ý Túc: Tinh tấn là lòng dũng mãnh kiên trì, chuyên tâm học hỏi hành trì miên mật cho đến khi thành tựu thiền định như ý. Không phải lúc thì nỗ lực quá sức, khi thì lơ là chểnh mãng hoặc gián đoạn một thời gian.

3) Tâm Như Ý Túc:  Thông thường tâm con người lúc nào cũng lao xao vọng động hết suy nghĩ này, đến suy nghĩ khác, gọi chung là vọng niệm. Muốn tâm được hoàn toàn yên lặng hành giả tập chuyên chú vào một đối tượng duy nhất. Tâm yên lặng vững chắc thì đó là trạng thái tâm định. Trong kinh gọi là định Nhất tâm.

4) Tư Duy Như Ý Túc: Tư duy ở đây là quán chiếu pháp tu bằng tuệ trí đưa đến kết quả định. Từ định phát huy trí huệ Bát Nhã.

- Câu hữu: Đi kèm, dính liền với...

- Tinh cần hành: Nỗ lực hành trì.

- NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Khi "tâm hoang vu" và "tâm phiền trược" hoàn toàn diệt trừ, hành giả chuyên cần tu tập theo pháp "Tứ Như Ý Túc" và "nỗ lực thiền định" để thành tựu năm định như sau:

1) Dục thiền định: (Dục ở đây có nghĩa là nhiệt tâm, siêng năng). Nhiệt tâm tu tập thiền định cho đến khi nào thành tựu pháp tu mới thôi. Dục làm chủ để đắc định.

2) Tinh tấn thiền định: Dù tha thiết muốn tu thiền định mà không tinh cần nỗ lực sẽ không đạt được kết quả gì. Ở đây tinh tấn hành trì sẽ đạt được định.

3) Tâm thiền định: Tâm không xao động, không vọng tưởng, đạt được sự yên lặng vững chắc do Tâm làm chủ mà đắc định "Không Tầm không Tứ".

4) Tư duy (Quán) thiền định: Quán là dùng tuệ trí tư duy quan sát pháp mình đang tu. Nhờ nương vào sức mạnh của Quán mà định phát sanh. Từ địnhtrí huệ tâm linh phát sáng. Bây giờ định-huệ đồng thời tức hiển lộ cùng lúc.

5) Tinh cần thiền định: Tâm hành giả luôn thường trụ trong "đại định"mọi nơi, mọi thời (đi, đứng, nằm, ngồi) ... Hành giả thong dong gia nhập vào đời sống thế gian hoằng pháp cứu độ chúng sanhtâm không dao động. (Định trong Động; Tám gió thổi không động).

 

A. NGUYÊN VĂN KINH:

Chư Tỷ-Kheo, Tỷ-Kheo nào đầy đủ mười lăm pháp kể cả nỗ lực, thới có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.

 Chư Tỷ-Kheo, như có khoảng  tám, mười, hay mười hai cái trứng của con gà mái, những trứng này được con gà mái khéo ấp, ngồi lên trên, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng, thời dầu cho con gà mái không khởi lên sự mong ước: "Mong rằng những con gà con của ta, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng, hay với mỏ của chúng, có thể thoát ra một cách yên ổn", những con gà con ấy, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng hay với mỏ của chúng, có khả năng thoát ra một cách an ổn. Chư Tỷ-Kheo, cũng vậy, Tỷ-Kheo đầy đủ 15 pháp, kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn thoát khỏi các ách phược.

B. NỘI DUNG ĐOẠN KINH NÀY:
Đi đến kết luận, Đức Phật đưa ra thí dụ một con gà mái ấp trứng đúng cách, không cần có ý niệm mong cầu, theo thời gian, gà con đủ lớn, sẽ tự chọc thủng vỏ trứng bằng móng chân nhọn hay mõ nhọn của chúng, mà chui ra khỏi vỏ một cách an toàn. Thí dụ này để so sánh với các vị Tỷ-Kheo. Nếu vị Tỷ-Kheo nào đạt được đầy đủ 15 pháp (5 tâm không hoang vu, 5 tâm không phiền trược, 5 loại thiền định) thì nhất định sau một thời gian kiên trì tu tập, tâm vị ấy sẽ tự đâm thủng màn vô minh, phá tan phiền não, thành tựu tuệ giácđạt được tối thượng an ổn, thoát khỏi các ách phược tức đắc quả A-La-Hán.

*****

Tóm lại, bản kinh "Tâm Hoang Vu" ghi lại một thời pháp của Đức Thế Tôn nhằm nhắc nhở các Tỷ-Kheo nên kiên trì tinh tấn trong vấn đề tu tập. Nếu hành giả đoạn trừ được "năm Tâm Hoang Vu, năm Tâm Phiền Trược"thực hành pháp "Tứ Thần Túc" cùng "nỗ lực thiền định", thì hành giả sẽ có đủ khả năng khai mở trí huệ tâm linhthành tựu Chánh Giác.

Bài pháp này mở ra một lộ trình giải thoát với phương thức rõ ràng, giúp người tu bắt đầu từ trạng thái Tâm Phàm Phu nhiều tham dục, nhiều phiền não khổ đau, dần chuyển sang trạng thái Niết Bàn an vui hạnh phúc. Tuy bài kinh Đức Thế Tôn thuyết giảng cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ, nhưng đến ngày hôm nay, bài pháp vẫn còn giá trị sâu sắc dành cho bất cứ những ai hữu duyên muốn tu tập. Nếu vị nào ứng dụng đúng mức vào đời sống tu tập của mình, chắc chắn sẽ kinh nghiệm được thân tâm an ổn, lìa xa mọi khổ ách ngay trong đời sống hiện tại./.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

October 29-2019

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- (*) Tăng Chi BK - (VII. Phẩm Lớn; 70. Các Lễ Uposatha.)

- (**) "Thánh Nhân Trong Kinh Điển Pali” (Phần giải thích bốn đôi tám chứng) của HT Thích Hiển Chánh (buddhismtoday.com)

- (***) Phật Học Phổ Thông, HT. Thích Thiện Hoa. Bài thứ 8 "Đạo Đế: Tứ Như Ý Túc"

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 335)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 129)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 370)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 241)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 261)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 380)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 275)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 451)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 589)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 581)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 750)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 460)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 424)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 440)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 558)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 498)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 780)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 523)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 797)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 556)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1230)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 700)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 941)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 782)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 896)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 863)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 718)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 903)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 888)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 815)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 853)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 872)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 742)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1198)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1060)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1041)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1830)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1315)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1291)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1754)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1734)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 1912)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
69,256