HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

AUDIO và BÀI VIẾT: Buổi phỏng vấn của ký giả Trọng Thành đài RFI với Thiền Sư Thích Thông Triệt

03 Tháng Tư 202012:57 CH(Xem: 7163)

Buổi phỏng vấn của ký giả Trọng Thành đài RFI với Thiền Sư Thích Thông Triệt
TrongThanh PhongVan Thay_Phap17
Logo RFIClick Icon tam giác để nghe bài phỏng vấn, Chick Icon 3 chấm để download

Click Icon tam giác để nghe, Chick Icon 3 chấm đứng để download

TẠP CHÍ KHOA HỌC

 

Thứ tư 18 Tháng Bẩy 2012

Lợi ích của tập thiền dưới ánh sáng của khoa học về bộ não

RFI/ Trọng Thành

Nghe (17:42)

 

image002
Các bản đồ về bộ não trong lớp học về Thiền tại Hội Thiền
Tánh không Paris, Noisy le Grand, 7/6/2011. RFI/Trọng Thành

 

Từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây, có nhiều người trong giới tu hành Phật giáo hướng đến các khoa học về con người, đặc biệt là khoa học về thần kinh não bộ để tìm trong đó những cơ sở thực chứng khách quan của con đường rèn luyện nội tâm. Tạp chí được phát lần đầu tiên vào ngày 08/06/2011.

Những phát triển mới trong nghiên cứu khoa học về bộ não và nhất là các kỹ thuật đo lường và chụp ảnh những hoạt động của não cho phép một số nhà tu hành đặt mình vào vị trí đối tượng nghiên cứu của khoa học thần kinh.

Chúng tôi có duyên được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt, thiền chủ Thiền viện Tánh không (Hoa Kỳ) nhân dịp ông qua Pháp giảng dậy. Thiền sư Thích Thông Triệt là người đã rất nhiều năm đeo đuổi ước vọng dùng các hiểu biết khoa học để soi sáng quá trình tu tập. Thiền sư là soạn giả cuốn sách « Thiền dưới ánh sáng khoa học », ấn hành năm 2010 (sách được dịch qua Pháp ngữ với tựa đề "Zen sous l'éclairage de la science" và Anh ngữ  "Zen in the light of science”).

Cuốn sách này mô tả lại các thực nghiệm với các máy đo điện não đồ và cộng hưởng từ, mà các nhà não học thuộc trường đại học Tubingen (Đức) tiến hành trong vòng 5 năm (2006-2010) trên đối tượng là bản thân Thiền sư và các Thiền sinh theo học kỹ thuật Thiền Tánh Không.

Trước khi ông lên máy bay trở về Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt tại thiền đường Hội thiền Tánh không Paris (Association Méditation Sùnyatà). Sau đây là những lời giải thíchThiền sư đã dành cho chúng tôi về chủ đề này.

 RFI
: Xin kính chào Thiền sư. Hôm nay có dịp được Thiền sư cho phép gặp mặt và nhận lời nói chuyện với Đài, và qua Đài chuyển tiếng nói đến những thính giả, những người Việt Nam, hoặc những người nghe và hiểu tiếng Việt, để biết được con đường tu hành của đạo Phật dưới sự soi sáng của khoa học thần kinh hiện đại. Cụ thểtu tập theo pháp môn « Thiền » và những tác động của nó đến đời sống hàng ngày của mình, và để nó giúp mình giải quyết các vấn đề khó khăn, mà nhiều người tự bản thân còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao trước những trở ngại tinh thần, tâm lý, sức khỏe bệnh tật. Theo Thiền sư, pháp môn Thiền có thể đem lại những gì cho những người bình thường bị rơi vào trạng thái như vậy ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Trước hết, chúng tôi cám ơn anh Trọng Thành, đại diện cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp đặt câu hỏi. Chúng tôi xin trả lời rằng, Thiền là do Đức Phật Thích Ca, Ngài đã tự tu và tự mình kinh nghiệm được những gì mà Ngài đã khắc khoải trước đó. Sau đó, Ngài đã thành tựu. Ngài dạy lại, và pháp môn Ngài dạy lại đó thực sự là pháp môn tu Thiền. Mà Thiền của Đức Phật nhắm làm sao giúp con người điều chỉnh lại nhận thức của mình. Vì chính nhận thức đó đưa đến cho con người khổ não, trầm luân, hay là giải thoát.

Thành ra, khi hướng dẫn người thực hành Thiền, chúng tôi nhắm khai triển những phần nào mà làm cho con người được hài hòa thân tâm của mình, và phát huy được trí tuệ tâm linh của chính mình. Cho nên phần đó, chúng tôi thường dẫn chứng bằng « Pháp » mà Đức Phật đã thành tựu được. Đó là pháp thở. Từ nơi pháp thở đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh lại được sự rối loạn bên trong não bộ của chúng ta. Phần đó sẽ được giải thích hơn, nếu mà người đọc có nhu cầu.

Tìm rachế để « vọng tưởng » không xuất hiện

RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Điều này nói ra nó hơi dài. Nhưng nếu mà em muốn nghe, thì chúng tôi sẽ nói ra. Ngày nay, Thiền thật sự là một môn tu cũ rồi, nhưng mà nó lại trở nên mới. Lý do là, Thiền đã có trên thế gian này hơn 2.500 năm rồi. Tức là sau khi Đức Phật thành đạo, bằng Thiền. Ngài dạy lại các phương pháp của ngài cũng bằng Thiền.

Nhưng mà vì nó khó quá, nên người này chế ra phương pháp này, người kia chế ra phương pháp kia. Mục đích để làm cho tâm mình nó yên lặng thôi. Thành ra, những cái chế đó ấy, các sáng tạo, sáng chế đó làm cho Thiền càng thêm rối bời thêm ra. Mỗi người làm theo ý mình, rốt cuộc nó loạn ra. Có cả triệu (phương pháp), chứ không phải ngàn đâu. Trải qua 25 thế kỷ rồi, người thực hành Thiền rất khó khăn. Đứng trước rừng Thiền, một cánh rừng già dày đặc, muốn vô làm sao vô đây.

Chính bản thân tôi ngày xưa cũng vậy đấy. Chúng tôi đã thất bại khi áp dụng các phương pháp cũ. Đó là người ta giảng sao mình làm theo vậy. Nhưng rồi, có điều bật ra từ trong não chúng tôi, chúng tôi tự giải đáp trong não mình. Tức là đừng có « nói thầm » ! Nói thầm hoài thì « vọng tưởng » có hoài. Vì chủ trương của Thiền là dập tắt vọng tưởng, tức là những ý nghĩ miên man trong đầu khởi lên lên. Người này chế ra cách này, người kia chế ra cách kia để dập tắt vọng tưởng. Chúng tôi làm đủ hết mọi cách, nhưng không làm sao dừng được những sự « nói thầm » trong đầu của chúng tôi. Thực sự lúc đó, chúng tôi không biết đó là sự « nói thầm », chúng tôi cho rằng, đó là « vọng tưởng » thôi. Nhưng rút cục chúng tôi nhận ra rằng : A ! Cái gọi là « vọng tưởng » chính là sự « nói thầm » trong não mình đó. Bây giờ phải làm sao cho yên lặng cái đó đi thì mới được. Từ đó chúng tôi thực tập bằng cách không nói thầm.

RFI : Xin cắt ngang ở đây để Thiền sư giúp giải thích : « nói thầm » thì những biểu hiện ra sao, và tác hại của nó như thế nào ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Khi nói thầm, đó là cơ chế của « tưởng ». Trong não bộ của mình, nó có một cơ chế … Nhưng hồi đó, chúng tôi không biết cơ chế não bộ. Từ trong đầu nó khởi lên cái « niệm ». Nói qua nói lại với nhau. Tức là mình nói qua nói lại với mình về một chuyện gì đó do những hình ảnh trong tâm mình khởi lên. Mình chạy theo hình ảnh đó để mình nói, nói rồi, tâm xúc cảm mình nó đi theo hình ảnh đó. Thành ra nội tâm không bao giờ yên lặng được.

RFI : Cái nói thầm như Thiền sư nói có thể chuyển sang diễn đạt khác là đối thoại bên trong có đúng không ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, từ chỗ nói thầm ban đầu, rồi đối thoại thầm lặng bên trong không bao giờ dứt. Thành ra, từ chuyện không có gì hết bắt đầu mình vẽ ra, mình sợ hãi, mình phiền muộn, mình giận tức luôn nữa. Nhiều khi « » xúi mình giết người ta đi, hay làm những chuyện tầm bậy, tầm bạ. Vì sự đối thoại thầm lặng đó đấy. Khi chúng tôi phát hiện lối đó, chúng tôi áp dụng cách không nói thầm.

Kinh nghiệm tu tập trong trại cải tạo

RFI : Thiền sư phát hiện điều này vào thời điểm nào và có phải là trước khi Thiền sư bước vào nghiên cứu não đồ và các cấu trúc não liên quan đến quá trình Thiền ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, lúc đó là vào năm 1982, khi tôi ở ngoài Bắc, tại trại Thanh Liệt. Chúng tôi phát hiện được rằng : Ồ, cái « niệm » (hay vọng tưởng) mà mình muốn dừng lại đó chính là từ sự nói thầm, khi dừng sự nói thầm thì cái niệm dừng, cái vọng tưởng dừng. Từ đó chúng tôi hiểu rằng không nói thầm thì dẹp tan các vọng tưởng. Từ đó chúng tôi trở nên an tịnh nội tâm được. Từ đó chúng tôi dụng công tu.

Hai năm đầu, từ năm 1975 đến năm 1977, chúng tôi « được » người ta nói là già 80 tuổi, thực sự lúc đó chúng tôi chỉ hơn 40 tuổi thôi. Chúng tôi không biết sao mình già mà mới có hai năm thôi. Rồi, chúng tôi tiếp tục riết cho tới năm 1982, khi chúng tôi ra miền Bắc. Thì chúng tôi nhận ra rằng : sự đối thoại thầm lặng hay sự nói thầm trong não của chúng tôi nó đưa đến thân tâm tàn tạ.

RFI : Lúc đó, có thể nói là Thiền sư đang ở trong trại cải tạo. Phải chăng điều kiện khắc nghiệt và khổ sở, cô lập trong trại như vậy khiến Thiền sư rơi vào trạng thái này ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Không phải, lúc đó chúng tôi ở trong trại cải tạo như vậy, nhưng lúc đó nó là điều kiện thích hợp cho việc tu hành của chúng tôi, vì chúng tôi đâu có tiếp xúc với bên ngoài nữa. Đó là một điều kiện thuận lợi cho việc tu Thiền của mình thôi. Tu Thiền là để dừng vọng tưởng, nhưng lúc đó tôi không biết đấy là gì. Khi mà tôi nhận ra được vọng tưởng là sự nói thầm, điểm mấu chốt, thì chúng tôi thực hành để làm sao làm chủ được sự nói thầm đó. Cho nên chúng tôi nói rằng, cái mà Thiền tông gọi là « diệt vọng » thì không đúng, mà mình phải làm chủ vọng tưởng mới được.

Từ khi chúng tôi áp dụng cách không nói thầm trong não, thì trở nên một cậu thanh niên đẹp, trẻ, mà không phải là ông già 80 nữa. Bằng chứng là khi ông cán bộ đưa chúng tôi về Hà Tây, thì chúng tôi thấy rằng, những người kia như những con khỉ già, hốc hác. Ông cán bộ nói rằng, trong số các anh đây, anh này này ở đây lâu mà sao lại hồng hào. Nghe như thế, chúng tôi nói, à, như thế, chúng tôi thực hành đúng rồi đó. Đúng như thế nào, cái « nước » gì giúp cho tôi, thì thực sự chưa biết được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, phải có cái chất gì, cái « nước » gì trong đầu chúng tôi tiết ra đó để làm cho tôi được trẻ, trong sáng. Đấy là cái ý tưởng đầu tiên nó ghi trong đầu tôi là như thế.

Hiểu biết khoa học về não giúp cho thời gian tu tập được rút ngắn

RFI : Như thế là, bắt đầu từ cái kinh nghiệm đầu tiên mà Thiền sư cảm nhận được vào thời điểm năm 1982, đấy là khởi điểm mà Thiền sư tiếp tục đi về hướng nghiên cứu về quan hệ giữa bộ não và quá trình Thiền. Thiền sư có thể nói một cách rất đơn giản để thính giả bình thường có thể hiểu được là, nghiên cứu về não tạo điều kiện như thế nào cho việc hiểu về cơ chế của Thiền ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Nếu hiểu biết về cơ chế của não bộ, thì một là mình thực hành mà không sợ sai lạc. Thứ hai là mình đốt được thời gian, thu ngắn được thời gian. Thay vì mình phải thực hành để khắc chế vọng tưởng, hay làm cho vọng tưởng không khởi lên nữa, thì mình không cần. Mình chỉ đi vào cơ chế là : không khởi niệm vọng tưởng nữa.

Trong não bộ cần phân biệt hai vùng. Vùng phía trước và vùng phía sau. Vùng phía sau theo thuật ngữ Thiền gọi là cơ chế của « Tánh giác ». Mình đi vào cơ chế này mà thực hành thì lẹ hơn là vào cơ chế phía trước. Ở phía trước, bên não phải là ý thức, bên trái là ý căn, ý trí năng. Bộ phận đó là thuộc về « tâm đời », tâm của người phàm phu, cứ dính mắc chuyện này, chuyện kia đó.

Chúng tôi nói rằng, cho mày nằm yên đó đi, tao đi vào ngõ này thôi. Chúng tôi « pha » (tức « bỏ qua » – tiếng địa phương Nam Bộ) cái vùng phía trước và đi thẳng vào phía sau. Phía sau là cơ chế của « Tánh giác ». Đi thẳng vào vùng phía sau thì phải biết các đặc tính của nó, chức năng của nó là gì. (Cơ chế đó) là biết mà không có lời nói thầm.

Cho nên bây giờ chúng tôi hướng dẫn Thiền, chúng tôi « pha » (bỏ). Chúng tôi biết rằng chúng ta có cơ chế phía trước như vậy, mà cơ chế này nó dính mắc, do những truyền thống nó ghi sâu đậm trong tâm mình, những day rứt nội tâm của mình nó tiềm tàng trong đó, những đam mê của mình nó tiềm tàng trong đó. Thế thì bây giờ một lúc làm sao mình gạt được những cái tâm đó được. Cho nên chúng tôi nói, thôi (cái vùng phía trước) cứ nằm yên đấy đi, chúng tôi hướng dẫn người thực hành đi thẳng vào cơ chế của « Tánh giác ».

Chúng tôi dạy học trò, nhưng lúc đó chúng tôi dạy nhưng chưa chứng minh được qua chụp hình não bộ. Phải đợi đến năm 2006, chúng tôi mời nhờ các học trò của chúng tôi ở bên Đức, liên lạc với các nhà não học ở bên Đức, hai ông Erb và Sitaram. Cho đến khi chụp hình não bộ được, thì chúng tôi mới biết cụ thể các vùng đó nằm ở đâu. Bây giờ chúng tôi hướng dẫn người thực hành Thiền đi thẳng vào cơ chế phía sau để làm sao làm yên lặng được nội tâm mình, mà mình không mất nhiều thời gian.

Như hôm qua, chúng tôi giảng dạy ở Poitiers, toàn là những người mới không, chưa bao giờ học Thiền. Cho họ vô, họ đi thẳng. Và họ thấy họ điều khiển được trạng thái rối bời của tâm họ. Nên chúng tôi thấy rằng, ngày nay, mình thực hành Thiền không mất nhiều thời gian. Ban đầu cần phải chỉ cho họ biết các vùng cụ thể cái đã. Bởi người ta có kiến thức, nó khác hơn Việt Nam mình. Tại Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng có nhiều người đi học Thiền không có đủ kiến thức khoa học về bộ não.

Trong một cuốn sách, chúng tôi có viết rằng, sau này nếu được, trong một trường trung học tại Việt Nam, ở lớp 10 nên cho học trò học Thiền để có khái niệm, thì thực hành dễ hơn. Lớp 10 thì có kiến thức (…).

RFI : Thưa Thiền sư, vừa rồi Thiền sư có nói đến buổi giảng tại Poitiers, trong vòng có hai ngày, người ta đã có thể có ý thức về chuyện đó rồi ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta làm được, chứ không phải có ý thức. Người ta làm được liền.

RFI : Cụ thể là làm được gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Thí dụ chúng tôi dạy họ phương pháp thở, chỉ ở bước 1, bước 2 thôi. Những ý nghĩ trong đầu họ dừng hết tất cả. Chúng tôi hỏi, các vị có nói thầm trong đầu không ? Trả lời không có. Từ đó chúng tôi hướng dẫn họ thêm nữa. Chỉ có hai ngày thôi, chúng tôi hướng dẫn họ về lý thuyếtthực hành, họ làm được, khỏe khoắn, vui vẻ, điều chỉnh được bệnh tâm thể của họ. Thí dụ như, bệnh huyết áp, tim mạch rối loạn.

Các bệnh cao huyết áp, cao máu mỡ và rối loạn nhịp tim

RFI : Thưa Thiền sư, có những bệnh gì, mà trong quá trình Thiền sư giảng dạy, và hướng dẫn những người thực hành theo để có thể chữa được bệnh đó một cách nhanh chóng và hiệu quả?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Bệnh tim mạch, thí dụ như cao máu (cao huyết áp), cao máu mỡ, rối loạn nhịp tim, là nhanh chóng có hiệu quả liền tức khắc. Khi hướng dẫn Thiền, chúng tôi cho họ ghi lên bệnh của mình, nhưng không ghi tên của họ. Khi hết xong đưa cho chúng tôi, chúng tôi xếp loại. Ví dụ như có người bị mất ngủ kinh niên. Tôi mới giải thích, mất ngủ kinh niên là do trung tâm « giữ giờ » trong não bộ nó bị rối loạn. Ví dụ như chúng tôi hướng dẫn một cô nhìn bóng đen để điều chỉnh trung tâm giữ giờ đó. Khi nhìn bóng đen, cái đường con mắt đi vô nó đi ngang qua hạch nhân điều chỉnh việc ngủ thức của mình (tuyến tùng có hai tên gọi là "épiphyse" hay "glande pinéale"). Hạch nhân đó tiết ra chất melatonin.

RFI : Khi nghe Thiền sư mô tả quá trình chữa bệnh như vậy, nghe Thiền sư giống như một bác sĩ tâm lý. Có câu hỏi đặt ra là, giữa phương pháp Thiền theo đạo Phậtphương pháp chữa bệnh tâm lý rất hiện đại như vậy có gì liên hệ với nhau cụ thể là trong trường hợp kể trên ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dạy phương pháp nhìn ánh sáng. Ánh sáng này có thể là đèn hay nắng. Đường đi ánh sáng vô đâu ? Nhìn ánh sáng nắng thì nó vô mắt mình vào võng mạc (rétine), đi theo các đường chéo như hình như cái nón đó, rồi chạy lên đụng tuyến tùng. Tuyến tùng nó mới tiết ra serotonin, hay là melatonin nữa. Từ chất đó mà nó điều chỉnh bệnh mất ngủ hay bệnh trầm cảm. Như vậy, chúng tôi kết hợp với khoa học để đối chiếu lại. À, Phật dậy trong kinh đó, bây giờ hỏi vì sao nó điều chỉnh được ? Đó là nhờ những chất mà chúng tôi gọi là các « nước sinh hóa học ».

RFI : Thiền sư có thể nói về những cái bệnh mà Thiền sư nói là Thiền chữa rất là tốt, ví dụ như các bệnh về mỡ máu, hay bệnh tim mạch, … cụ thể như thế nào ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dậy mình cách thở. Khi thở vô, mũi mình có hai cái que (tức là bộ phận "bulbes olfactifs" hay hành khứu giác). (Thở vô) hai cái que đụng thẳng vô khu dưới đồi của mình, là Hypothalamus. Mà Hypothalamus là trung tâm tâm lý, tình cảm của mình đó. Rối loạn cũng nó, mà an ổn cũng nó, mà thánh thiện cũng nó luôn. Bằng hít thở vô nó đụng vào hai que đó liền, bằng tín hiệu nó đụng vào vùng dưới đồi liền. Đụng vô dưới đồi làm yên lặng nội tâm. Kế bên dưới đồi có trung tâm sợ hãi và điều khiển xúc cảm của mình nữa.

RFI : Cái vùng này tên khoa học là gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Amygdala. Nếu tập thở vô như vậy, nó đụng vào thần kinh đối giao cảm. Ở tận cùng của đầu dây thần kinh đối giao cảm thì tiết ra chất acetylcholine. Mà chính cái acetylcholine có vai trò điều khiển tim mạch. Một mặt nữa là thần kinh đối giao cảm khi trở về đụng vào thần kinh sọ não, thì nó đụng vào một hệ thần kinh khác, gọi là thần kinh phế vị, mà phế vị liên hệ đến phổi với nội tạng, hay là cả gan nữa. Nhờ thế mà nó điều chỉnh lại. Thành ra mình hít thở là mình tác động cùng một lúc vào ba hệ thống, đó là hệ thần kinh đối giao cảm, hệ thần kinh phế vị, và cái thứ ba thông qua hệ thần kinh đối giao cảm mà nó đụng được vào acetylcholine. Acetylcholine có ở nhiều nơi lắm. Từ cuống não cũng có, từ Dưới đồi cũng có, từ vùng thân thọ ở hai bên não bầu cũng có nữa. (…) Nhờ như thế mình mới ngừa được sốc ("strok", tức tai biến mạch máu não), điều chỉnh được tim mạch, máu mỡ. Lý do là acetylcholine khắc chế hai chất, đó là các chất (có thể) làm mình bị máu mỡ, là norepinephrine với epinephrine (hay còn gọi là noradrenaline và adrenaline).

RFI : Thiền sư nói như thế nghe như nếu ai đó có ý muốn thực hành phương pháp thiền này thì dường như có khả năng chữa được tất cả mọi bệnh. Nghe có vẻ như trong tầm tay mà không cần phải đi bệnh viện, không cần đến hiệu thuốc ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, nhưng không phải nó chữa được tất cả mọi bệnh đâu. Bệnh nào ra bệnh đó. Ví dụ như bệnh cần có acetylcholine, thì thở theo lối để làm acetylcholine.

Ngày nay, từ rối loạn não bộ nó dẫn đến nhiều bệnh khác. Ví dụ như bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức. Kể cả bệnh tiểu đường cũng do não bộ rối loạn. Vấn đề thiền là để làm gì ? Là để điều chỉnh hệ thống hoạt động của não bộ. Từ đó chúng tôi đưa ra phương pháp gọi là sự tương tác giữa Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân TâmTrí tuệ Tâm linh của con người.

Hiểu biết về cơ chế của bộ não giúp người tập Thiền tránh được các sai lầm

RFI : Vừa rồi Thiền sư giải thích với các thính giả không biết gì về đạo Phật cả. Đối với những người đã đi xa hơn rồi, bắt đầu bước vào, họ muốn đi cao hơn nhưng họ còn lúng túng giữa các pháp môn khác nhau. Vậy Thiền sư có thể nói để riêng với những người đó được không ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Thực sự cái thiền nó khó, nhưng cũng không khó. Khó là như thế này : khó là vì người thực hành không gặp một người đã kinh nghiệm thiền để hướng dẫn mình. (Nhiều người không có kinh nghiệm) hướng dẫn theo sở ý của họ. Nếu theo như vậy, có thể mắc bệnh tâm thể. Đấy là điều khó. Còn dễ là nếu biết được chức năng của hai vùng não thì mình làm được hết. Mình cô lập vùng phía trước hay là đi vô vùng phía sau. Nhưng nhận ra chức năng của mỗi vùng là làm được. Muốn nhận ra được chức năng của mỗi vùng, phải có người có hiểu biết về não bộ. Ngày nay, có người biết về não bộ (là các nhà khoa học), nhưng họ không « thực hành » được. (…)

RFI : Tức là họ không phải là người sử dụng các hiểu biết tâm linh để tác động vào các vùng mà họ biết về mặt giải phẫu và mặt nghiên cứu, đúng không ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Lấy thí dụ như trong não bộ có một vùng rất hay gọi là vùng Wernicke (Vùng ngôn ngữ : hiểu, đọc, viết và ký ức ngôn ngữ).

RFI : Nó nằm ở đâu ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Nằm ở vùng Dưới não, khoa học gọi là vùng Ngôn ngữ thứ nhất. Nhưng các nhà khoa học đâu có biết cách « thực hành » được vùng đó. Điều đó khó. Còn mình, « người thực hành » thì biết, thực hành được, nhưng không biết chỗ nào để mà chỉ. Thành ra hai cái đó khác nhau.

RFI : Khi mình biết cách sử dụng khu vực này, thì có ý nghĩa gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Mình biết để đi cho lẹ, thay vì đi lòng vòng. Đi vùng khác thì cũng được nhưng lâu hơn. Vì sao, vì vùng này liên hệ đến vùng giữa não của mình nữa (vùng Gian não). Điều quan trọng nhất là làm sao điều khiển được cuống dưới đồi.

RFI : Tức là vùng Wernicke điều khiển được vùng Dưới đồi ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Không, nó không điều khiển mà tác động vào thẳng.

RFI : Như vậy, những điều Thiền sư nói có phải liên quan đến một hệ thốngThiền sư nói trong nghiên cứu của Thiền sư với các nhà khoa học ở Đức, về hệ thống Viền não ? Phải chăng Thiền sư muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nó trong quá trình tu tập thiền ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, trong tu thiền, hệ thống Viền não rất quan trọng. Là vì toàn bộ « tâm » của con người nằm trong này.

RFI : Bình thường, mình gọi là « tâm » hay « tinh thần », nếu mà không biết thì không hiểu nó nằm chỗ nào trong cơ thể, nhưng nếu theo Thiền sư và các nhà khoa học cộng tác, sau khi nghiên cứu, có thể chỉ ra vị trí của nó ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi. Nếu không biết chức năng của các bộ phận trong não bộ của mình, mà cứ thực hành thì một ngày nào đó sẽ bị bệnh tâm thể.

RFI : Thiền sư có thể cho một ví dụ để những người đang tập, hay quan tâm đến chuyện này có thể dễ hiểu. Tức là, khi tập thiền sai lạc thì bị mắc những bệnh gì ?

Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta gọi là « tẩu hỏa nhập ma » đó. Thứ nhất là mắc bệnh cao máu, cao máu mỡ, tiểu đường, đó là ba thứ bệnh thông thường nhất mà mình dễ gặp. Rồi lần lần nó lên nữa là bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức.

Do mình thực hành sai lạc. Mình thực hành miên mật, nhưng sai lạc. Thay vì đừng tập trung tư tưởng vào đối tượng, thì mình cứ tập trung. Bên não phải mình sử dụng này, tập trung như vậy là mình tác động vào hệ giao cảm thần kinh. Mà đầu dây của các dây thần kinh giao cảm có tiết ra một chất hóa học là norepinephrine (còn gọi là noradrenaline). Khi chất này được tiết ra rồi thì nó đi theo máu, vô tuyến thượng thận, bắt đầu đến phần ruột thượng thận (phần giữa của tuyến thượng thận/glande médullosurrénale), thì nó tiết ra epinephrine (adrenaline). Nếu hai chất này bị tiết ra mãi mãi, thì một là tim mạch bị rối loạn, đường máu cao, và cuối cùng mất ký ức luôn. Do epinephrine trong tuyến thượng thận nó tiết hoài thì tác động vào vỏ thượng thận thì ra cortisol. Mà cortisol ra hoài thì mất ký ức (trí nhớ). Vì chất này theo máu lên não bó chặt tế bào não vùng ký ức khiến chúng chết. Sự tương tác này chúng tôi gọi là tương tác dây chuyền Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân TâmTrí tuệ tâm linh của con người là như thế.

Điều cơ bản là acetylcholine được tiết ra thì norepinephrine bị dẹp. (…) Khi mình yên lặng được thì hệ đối giao cảm hoạt động, các đầu dây của hệ này sẽ tiết ra acetylcholine (…) giúp cho chúng ta được cân bằng và hài hòa. Cái thuật ngữ của Thiền gọi là hài hòa, chính là mình hài hòa được các chất sinh hóa học trong não bộ của mình.

RFI : Xin cảm tạ Thiền sư đã dành thời gian quý báu của Thiền sư giúp thính giả hiểu biểt hơn về Thiền.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24 Tháng Ba 20245:02 CH(Xem: 107)
Mùa xuân năm 1929, mừng Thầy đến, mùa xuân năm 1982, mừng Thầy thấy rõ con đường, mùa đông năm 2019, Thầy đi.... ...Biết vậy, mà sao sáng nay, trong nắng ấm, ngắm hoa xuân, lại dường như có ai rơi nước mắt.
27 Tháng Ba 20246:45 SA(Xem: 58)
Heute, ein Frühlingsmorgen, blauer Himmel, weiße Wolken, warme Sonne und volle Kirschblüten vor dem Hof ​​des Sunyata Zentrums, möchte ich euch einen Meditations-Laib: Gebote, Samadhi und Weisheit anbieten, der aus dem reinen Wissen eines Naturgeistes gemacht wurde.
25 Tháng Ba 20249:43 SA(Xem: 75)
La nature du monde est vide, est vacuité. Ce n'est juste qu'une illusion. Cette sagesse nous donne la capacité de séparer notre mental de tout attachement au monde. Ce n’est qu’alors que l’on peut demeurer dans la conscience "Ainsi". Lorsque nous possédons la sagesse et la perspicacité pour reconnaître la nature du monde, alors il n’y a plus de chemin, plus besoin de dharma, plus de portes à ouvrir. Nous vivons vraiment dans notre maison spirituelle qui existe depuis toujours en nous.
24 Tháng Ba 20244:44 CH(Xem: 79)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: CON ĐƯỜNG GIỚI QUÁN ĐỊNH TUỆ ngày 16 tháng 3 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
24 Tháng Ba 202410:27 SA(Xem: 64)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Luận giảng số 1 GIỚI THIỆU CÁCH THỨC TẠO LUẬN
17 Tháng Ba 20243:11 CH(Xem: 188)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Lời Tựa
17 Tháng Ba 20242:16 CH(Xem: 333)
Chỉ là đơn thuần, mở mắt ra nhìn ngắm, cảnh thế nào nhận biết y như vậy, diễn nói hay thầm lặng, tâm đều trong sạch, tĩnh lặng, khách quan. Đó là chân tâm, Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ đầy đủ
13 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 253)
Unzählige Jahre habe ich törichterweise nach einem „Märchenland im Jenseits des Nebels“ gesucht. Wie oft bin ich dem Nebel begegnet und wie oft habe ich davon geträumt, ein Märchenland zu finden. Am Ende meines Lebens wurde es mir klar, dass das wahre Märchenland nirgendwo draußen ist, sondern es ist in mir.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 248)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 512)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 475)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 318)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 367)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 486)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 356)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 531)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 689)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 675)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 832)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 530)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 456)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 485)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 577)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 518)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 807)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 595)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 865)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 625)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1273)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 757)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 1003)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 835)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 966)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 922)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 774)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 930)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 927)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 859)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 895)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 912)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 774)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1235)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1096)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1082)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1877)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1355)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1331)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1774)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
69,256