CÁI BIẾT CỦA PHÀM PHU VÀ BẬC THÁNH


* HỎI: Tôi có đọc bài "Kho tàng ở đâu" của Ni sư Triệt Như, rất hay và bổ ích. Tôi đọc nhiều lần nhưng vẫn chưa hiểu thông suốt. Tôi có thắc mắc vài chỗ:
- Thắng tri và Liễu tri sao giống tựa tựa nhau quá? Trong bài có giảng là "thắng tri là cái biết không còn lậu hoặc", vậy thì là bậc A la hán rồi, mà A la hán thì không còn cái ngã nữa, mà không còn ngã thì là cái biết Liễu tri? Vậy Liễu tri là cái biết của bậc Thánh hay của Phật?
- Khi chúng ta tu tập đạt đến "thầm nhận biết" thì là thắng tri? Còn khi đạt đến "nhận thức biết" là liễu tri?
Tôi thật sự còn lẫn lộn nhầm lẫn, xin giảng nghĩa rõ ràng lại dùm tôi để hiểu thấu đáo hơn. Xin cám ơn.
* ĐÁP: Trong giáo lý đạo Phật, khả năng hiểu biết của con người được phân thành nhiều cấp độ khác nhau, gồm tưởng tri, thức tri, thắng tri, tuệ tri, liễu tri, tương ứng với quá trình thực tập chuyển hóa và thanh lọc tâm thức. Ở cấp độ hiểu biết thế gian thì có tưởng tri và thức tri. Ở cấp độ xuất thế (mức độ cao hơn, hướng về tâm linh) thì có thắng tri, tuệ tri và liễu tri.
1/ Tưởng tri: là sự hiểu biết thông thường của con người thông qua các giác quan. Tưởng thuộc khối Ngũ uẩn (sắc thọ tưởng hành thức) và là một trong các tác nhân thường khiến con người đau khổ.
Cái biết của Tưởng tri giúp con người nhận ra một sự vật nhờ ký ức hay do nhớ lại những gì mình đã trải nghiệm (đạp phải sợi dây mà tưởng rằng con rắn nên hoảng sợ: ý căn), nhận thấy mình nghèo hơn bạn bè nên đau khổ, mặc cảm (ý thức phân biệt so sánh) hay do suy luận nên thường bị méo mó (nhìn mặt ông chủ hôm nay đăm chiêu thì lại nghĩ chắc mình làm gì sai nên đâm ra lo lắng: trí năng)
2/ Thức tri: cũng là sự hiểu biết thế gian, là kiến thức có được nhờ học hỏi, thu thập hay tích lũy kinh nghiệm. Kiến thức là vô tận nên người đời có câu "Học, học nữa, học mãi". Trong cuộc sống, con người ta thường kính trọng những ai có bằng cấp, học vị hay kiến thức uyên bác. Thật ra cái biết của Thức tri gắn liền với bản ngã, chấp thủ (con người luôn cho ta đây là hiểu biết nhiều, giỏi hơn thiên hạ, ý kiến của tôi đây là nhất, ai không đồng ý là tôi không vui, bực mình ngay).


Tưởng tri và thức tri thuộc về hiểu biết thế gian, tuy giúp cho con người nhận biết, chuyển đổi và cải thiện cuộc sống (khoa học, y hoc, vũ trụ học), nhưng vẫn còn gắn liền với tham ái, với bản ngã nên còn giới hạn trong phạm vi hạnh phúc, khổ đau thế gian, vì thế người phàm phu vẫn không thoát khỏi sinh tử luân hồi.
3/ Thắng tri: là sự hiểu biết ở những ai bắt đầu nhận ra sự thật khổ đau của cuộc đời nên không còn mong muốn tìm cầu lạc thú thế gian và nỗ lực chuyển hóa đời sống tâm linh. Đây là sự hiểu biết của người bắt đầu tỉnh ngộ. Và tỉnh ngộ là bước đầu tiên quan trọng nhất trên con đường tâm linh tìm cầu giải thoát.
Thắng tri là sự hiểu biết của người có tu tập và hành trì theo lời Phật dạy, nhận thức rõ bản chất của mọi sự vật và hiện tượng (duyên sinh, vô thường, khổ, vô ngã), từ đó quyết tâm tìm một con đường đi cho chính mình nhằm thoát ly mọi dính mắc và trói buộc của cuộc đời.
Thắng tri là sự hiểu biết thù thắng, vượt lên trên sự hiểu biết thông thường của thế gian (tưởng tri và thức tri), phát triển nhờ sự tu tập theo những lời dạy của Đức Phật, từ đó sẽ đưa đến buông bỏ mọi trói buộc khổ đau.
Có vô số mức độ của Thắng tri, từ khi bắt đầu tỉnh ngộ và xuyên suốt quá trình tu tập.
Tóm lại, Tưởng tri là nhờ tưởng đưa đến, Thức tri là nhờ học hỏi mà có. Thắng tri là sự hiểu biết nhờ quá trình tu tập miên mật lâu dài theo đúng chánh pháp, sẽ tạo thêm sức mạnh giúp con người làm chủ được bản thân, làm chủ được hoàn cảnh.
4/ Tuệ Tri:

Tuệ tri là sự phát triển lớn mạnh của Thắng tri, nghĩa là nhận thức rõ bản chất biến hoại khổ đau tiềm tàng trong con người và trong mọi hiện tượng thế gian, thông hiểu rốt ráo về Tứ diệu đế: khổ, khổ tập, khổ diệt và con đường đưa đến khổ diệt qua kinh nghiệm hành sâu Bát Thánh đạo hay qua sự thực tập chuyển hóa nội tâm bằng con đường Giới-Định-Tuệ.
Trí tuệ (ở mức độ cao) sẽ có khả năng Liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn và cuối cùng có khả năng đoạn trừ lậu hoặc, đoạn diệt được tham sân si, chấm dứt khổ đau và sinh tử luân hồi.
5/ Liễu tri: là sự thấy biết đầy đủ, rốt ráo, viên mãn về khổ đau và con đường thoát ra khỏi khổ đau của những người đã tu tập và thành tựu đầy đủ về mười Thánh đạo (gồm Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định, Chánh trí, Chánh giải thoát), đã hoàn toàn đoạn tận các lậu hoặc tập khí, không còn tái sinh, chấm dứt sinh tử luân hồi. Đây là sự thấy biết của chư Phật và các vị đã giác ngộ.
Trong cuộc sống với vô số sự việc xảy ra hằng ngày, chúng ta cần nên bỏ bớt sự thấy biết theo Tưởng tri và Thức tri, mà phải nhìn hiện tượng thế gian bằng Trí tuệ. Cái thấy bằng Tưởng tri dẫn đến phán đoán sai lầm, cái thấy bởi Thức tri dẫn đến chấp thủ trong khi cái thấy bằng Tuệ tri là cái thấy biết như thật, đúng với bản chất "như vậy" của "cái đang là".

Phật pháp mênh mông nên Thắng tri có muôn vàn mức độ. Tùy theo khả năng và ý chí của mỗi người mà có những tiến bộ riêng chỉ tự mình nhận biết. Từ cái tâm lăng xăng đến cái biết thầm lặng là cả một quá trình. Từ cái tâm phân biệt so sánh đến cái nhìn Như thật là cả một chặng đường. Từ cái tôi ích kỷ ngã mạn đến lòng từ bi, hỷ xả là kết quả của những tháng ngày thực hành miên mật.
- Con đường thoát khổ đã được Đức Phật vạch ra rất rõ ràng: Bát Chánh đạo. Chúng ta cần nhớ rằng Đạo là phương pháp hành trì liên hệ mật thiết đến những khổ đau có thực của chúng ta. Trên con đường hướng tới niềm an lạc, hạnh phúc thì ta cần thực hành Bát chánh đạo, nhằm rèn luyện thân, khẩu, ý của chính mình.
- Giới- Định-Tuệ là ba phương tiện tu tập dựa trên Bát Chánh đạo, giúp một người vững bước trên con đường hoàn thiện nhân cách, hướng đến giác ngộ và giải thoát. Là người con Phật, chúng ta phải luôn lấy Giới-Định-Tuệ làm kim chỉ nam trong đời sống hằng ngày.


- Thực hành Bát Chánh đạo, trau dồi Giới-Định-Tuệ sẽ giúp người phật tử có được chánh niệm vững chải, có định lực vững vàng để mà có thể "bát phong bất động". Thực hành Bát Chánh đạo, trau dồi Giới-Định-Tuệ có khả năng dứt trừ vô minh, khai mở trí tuệ. Tuệ tri chính là sự phát triển lớn mạnh của Thắng tri.
- Để bào mòn các tập khí, lậu hoặc, kiết sử, tùy miên, chúng ta phải tập cho tâm một thói quen mới: thói quen im lặng. Có không nói ngay từ trong ý thì "con khỉ" mới bớt nhảy nhót chuyền cành, "con ngựa" mới không còn phi nước đại. Thực hành các chiêu thức đã học (chú ý trống rỗng, nhìn lướt, nhìn xa, nhìn lưng chừng, nghe tiếng chuông), pháp Như thật, Thiền định và kỹ thuật "không nói" sẽ giúp tâm ta dần dần yên lặng, đi từ cái biết có lời đến biết không lời, thầm nhận biết và cuối cùng là nhận thức biết không lời.
Đây là quá trình giúp bào mòn bản ngã, diệt trừ lậu hoặc và phát huy trí tuệ bát nhã. Trí tuệ (ở mức độ cao) sẽ có khả năng Liễu tri với sự hiểu biết rốt ráo trọn vẹn và cuối cùng có khả năng đoạn trừ lậu hoặc, đoạn diệt tham sân si, chấm dứt khổ đau và sinh tử luân hồi.
Tưởng tri, Thức tri, Thắng tri, Tuệ tri, Liểu tri đều có vô số mức độ khác nhau. Từ Tưởng tri đến Thức tri là quá trình học hỏi. Từ Thức tri đến Thắng tri là quá trình tỉnh ngộ. Từ Thắng tri đến Tuệ tri là quá trình tu tập miên mật. Từ Tuệ tri đến Liễu tri là cả một chặng đường hành trì rốt ráo Bát Chánh đạo và Giới Định Tuệ. Xuyên suốt trên con đường tâm linh đi từ giác ngộ đến thoát khổ và giải thoát, là một quyết tâm sắt đá, mãnh liệt muốn đoạn tận khổ đau, là một ý chí kiên cường, dũng mãnh tìm cầu chấm dứt sinh tử luân hồi.
Tâm con người như một dòng sông, nên không thể cắt đúng ở khúc sông nào để gọi tên nó là gì. Tu tập là một quá trình lâu dài, nên không thể cắt đúng ở một thời điểm nào để xác định rằng ta đang ở đâu, ta đạt được những gì. Chỉ riêng mình ta tự nhận biết những biến chuyển trong tâm, những thay đổi dần trong con người mình, trong cách hành xử với người xung quanh. Bởi thế, quá trình đi từ biết có lời đến biết không lời, rồi thầm nhận biết và cuối cùng là nhận thức biết cũng riêng mình ta là nhân chứng
Chúng ta nên có cái thấy uyển chuyển hơn, không nên chấp chặt vào từ ngữ nhiều quá. Tâm con người luôn biến chuyển, cho nên tạm dùng lời nói để diễn tả rất tương đối. Nay ta đã tỉnh ngộ rồi thì cần phải thực hành. Đó là cách duy nhất để giúp ta phát huy trí tuệ. Có trí tuệ là có hạnh phúc, có trí tuệ là dứt khổ đau, có trí tuệ thì mọi việc đều được thành tựu.
Như Chiếu
(Tổng kết sinh hoạt Đạo tràng Montreal)
You received this message because you are subscribed to the Google Groups "BBT-TK" group.
To unsubscribe from this group and stop receiving emails from it, send an email to bbt-tk+unsubscribe@googlegroups.com.
To view this discussion on the web visit https://groups.google.com/d/msgid/bbt-tk/1672007670.4753567.1619003874116%40mail.yahoo.com.
Send comment