Thích Thông Triệt
Bài đọc thêm khóa Chuyên Tu Thiền Định
Giới thiệu bài
NHẬN THỨC
Người nào học thiền mà không nắm vững chủ đề nhận thức thì cuộc đời tu thiền của mình kể như buông trôi. Tại sao vậy? Vì chủ đề nhận thức là chính nó có khả năng đưa ta tới nơi giác ngộ tối hậu; hoặc đưa ta đến nơi tỉnh ngộ, để rồi từ đó ta sẽ bước tiến lên những bậc thang giác ngộ; hoặc từ đó ta thong dong đi lại trên con đường giải thoát. Vậy bây giờ chúng ta cần phải tiến sâu vào rừng ngôn ngữ để tìm xem toàn bộ vấn đề nhận thức thật sự chúng là gì, cấu trúc như thế nào trong não bộ con người. Chúng đóng vai trò gì, chức năng của chúng có nhiệm vụ gì đưa chúng ta đến con đường tu tập thoát khổ, giác ngộ và giải thoát. Có bao nhiêu loại nhận thức, đặc tính của những loại nhận thức đó như thế nào? Là người chuyên tu định, chúng ta phải có những nhận thức nào phù hợp với việc chuyên tu định.
Ở đây chúng ta đã nhiều ngày học về định không tầm không tứ, qua đó chúng ta đã học nhiều chiêu thức và kỹ thuật để trọng tâm nhắm đến là cắt đứt đường mòn ngôn ngữ bằng hai tiếng nói thầm “không nói”. Chúng ta đã học tới học lui nhiều lần, bây giờ nói đến cách làm chủ tâm ngôn là chúng ta biết rõ cách đó áp dụng như thế nào, tác dụng ra sao trong não bộ của chúng ta. Như vậy là kết quả chúng ta đạt được nhận thức về sự kiện “định không tầm không tứ” qua đó bây giờ nếu có ai đề cập đến hai từ “không nói” làm phương tiện để đạt đến định không tầm không tứ là chúng ta tin tưởng ngay người đó chỉ bày đúng cách.
Đây là những dòng chữ được trình bày lại cho quí vị nào ham thích học thiền mà chưa có kinh nghiệm gì về thiền được biết rõ ràng về vai trò và chức năng cùng đặc tính của nhận thức bên trong não bộ của chúng ta. Để rồi từ đó chúng ta sẽ chọn những loại nhận thức nào phù hợp để chúng ta đi trọn con đường thiền mà không còn hối tiếc về những thú vui trần tục. Mong là bài Nhận thức dưới đây sẽ giúp quí vị đạt được những thành quả tốt đẹp theo hoài bảo và nguyện vọng của quí vị.
NHẬN THỨC
P: pajānati, parijānanā : cognition
Pparijānāti : to cognize
* Nhận thức: to cognize; to know, to understand; to perceive.
* Nhận ra: to recognize, to perceive, know, to be aware of.
1. Ý NGHĨA
Do đó, nhận thức luôn luôn kết hợp với ký ức của những sự kiện riêng lẻ. Ta nhận thức cái gì và cái đó đã có sẵn trong bộ nhớ của não bộ. Khi nhận thức có mặt, đối tượng hay thực tại vốn đã được hình thành trong nhận thức. Như vậy, đối tượng hay thực tại nằm bên trong nhận thức. Có nghĩa đối tượng hay thực tại nội tại (immanent) trong nhận thức. Nó và nhận thức là một. Như vậy, không thể có nhận thức mà không có đối tượng hay thực tại. Hễ có nhận thức, nhận thức đó phải có đối tượng hay thực tại.
Thí dụ : Nếu không học về những ý nghĩa của tánh giác và không nắm vững nghĩa bình dân của tánh giác, khi có một người nào đó đề cập đến tánh giác, ta sẽ không thể nào hình dung ra được tánh giác là gì, chức năng của nó như thế nào, tác dụng của nó ra sao đối với việc phát huy trí huệ tâm linh. Còn khi đã học và đã kinh nghiệm được những phần cơ bản trong cơ chế tánh giác, khi có một người đề cập đến tánh giác, ta liền có nhận thức ngay về tánh giác như thế nào theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của ta. Trong trường hợp này, tánh giác là sự kiện riêng lẻ của nhận thức. Bởi vì tất cả mọi người đều có nhiều kinh nghiệm theo từng sự kiện khác nhau. Như vậy, bất luận khi nào ta muốn nhớ lại bất cứ điều gì đã xảy ra trong quá khứ, sự kiện đó được gọi là sự kiện riêng lẻ. Sự kiện này được lập thành trong nhận thức của ta. Nó đã nội tại trong nhận thức. Do đó, khi muốn nhớ lại sự kiện đó, ta chỉ cần gợi lên ý muốn nhớ lại sự kiện đó, tức thì hình ảnh đó liền hiện ra trong nhận thức của ta. Như vậy, trong nhận thức luôn luôn phải có ký ức về sự kiện. Không có ký ức về sự kiện, nhận thức không thể thành lập.
Đây là cách vận dụng (the handling) giác quan, trí năng hay tri thức (knowledge) để đáp ứng lại (response) điều gì do mắt thấy đối tượng hay thực tại, tức ngoại trần (external world) hay các căn (sensory organs or faculties of senses) khác tiếp xúc (contact) ngoại trần.
2. Sự thành lập NHẬN THỨC
Để lập thành nhận thức, bản chất hay thực chất (essence) đối tượng hoặc thực tại đã được ý nghĩ (idea) nắm bắt (grasped) hay hiểu rõ (apprehended). Nếu không hiểu rõ thực tại hay đối tượng, ý nghĩ không thể nào nhận thức được chúng.
Trên mặt tục đế, thành phần nhận thức gồm suy nghĩ và quá trình hoạt động của tâm về thông tin do các căn tiếp thu ngoại trần (external world). Nó là nét đặc biệt của con người bình thường. Trên mặt chân đế, nó là nét đặc biệt của người đã đi vào dòng Thánh xuyên qua nhận thức không lời. Đây là nhận thức ngoài cảm giác, trong đó không có suy nghĩ.
Đối tượng của nhận thức: Cái được nhận ra đầu tiên và nhận rõ cuối cùng (definitively realized). Thứ nhất là phạm vi thực tại xuất hiện trực tiếp trong sát na đầu tiên. Thứ hai là hình thể của nó. Nó được lập thành trong sự phân biệt của tổng giác (apperception). Cái gì được nhận ra liền trong giác quan thì chỉ một sát na. Cái gì được quan niệm rõ rệt (distinctly) luôn luôn là một chuổi sát na nhận thức trong sự thiết lập trên cơ sở của giác quan nào đó.
Có hai nguồn nhận thức: Một là duy lý (radical) và một sự thực (real). Cái thứ nhất là suy diễn (the sequel), cái thứ hai siêu vượt (a transcendental one).
Cái gì được nhận thức bằng giác quan thì không bao giờ lệ thuộc nhận thức bằng suy luận. Cái gì được nhận thức bằng suy luận không bao giờ lệ thuộc vào nhận thức bằng giác quan.
Tiến trình nhận thức được lập thành do sự kết hợp của Giác quan, Đối tượng, Xúc, Thọ, Tưởng (Tưởng = tri giác + ký ức + mạng lưới khái niệm) và Hành (phản ứng của tâm + tâm sở). Đây là lúc mức độ biện luận (discursive levels) được phát triển lên cao độ. Trong đó vai trò của Não là tổ chức và kiến giải thông tin.
Thọ là nguồn cung cấp thông tin. Nó được truyền bằng lời cảm thọ, chứ không bằng cảm giác. Tiến trình nhận thức kinh nghiệm (cognitive experience) được lập thành từ trong Thọ. Thọ thanh tịnh là điều kiện cần thiết của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát. Thọ không thanh tịnh, khát ái theo đó sẽ khởi lên. Đầu mối của khổ, mê, và luân hồi được được thành lập dựa trên thọ. Vì thế người nào làm chủ được cảm thọ, người đó đạt được nhân chứng. Tức là tánh giác đã trở thành năng lực vững chắc. Thiền tông gọi là “Hằng sống với Tánh giác” hay “Hằng sống với Ông Chủ.”
Tưởng thành lập kinh nghiệm và hình thành chủ thể khách thể nhị nguyên (subjective-objective duality). Nhị nguyên xuất phát từ Tưởng. Mạng lưới khái niệm cũng được triển khai từ nó. Trong tiến trình lập thành nhận thức, Tưởng đóng vai chủ động. Hành và Thức được đặc tính hóa đều do Tưởng.
Từ nơi xúc, tác nhân kích thích truyền đến thọ; thọ khởi lên cái biết đầu tiên về đối tượng. Ngay nơi đây, nhận thức bắt đầu được thành lập nhưng không tinh vi. Nó ảnh hưởng ít hơn nhận thức trí năng. Thí dụ, nếu chúng ta nói chúng ta cảm thấy nhớ nhà, chúng ta cũng muốn nói rằng chúng ta biết chúng ta đương kinh nghiệm về nổi nhớ nhà như thế nào. Nhưng thực sự cảm thọ này không rõ ràng. Do đó, đưa đến nhận thức cũng không rõ ràng.
Thí dụ khác, khi chúng ta nói: Tôi cảm thấy việc đó sai. Như thế thọ đóng một phần lờ mờ trong tiến trình nhận thức của cá nhân. Bởi vì cảm thấy chưa phải là xác nhận chắc chắn. Nó lờ mờ quá ! Vì vậy, thọ chỉ cho sự tiềm tàng tiến trình lập thành nhận thức. Tuy nhiên, nếu tiến trình lập thành nhận thức này của thọ được duy trì liên tục, năng lực nhận thức của thọ sẽ chuyển sang một hình thái khác. Đó là khả năng trực giác sẽ được phát sinh. Đây là điểm mấu chốt trong tiến trình thực hành Bát Nhã Ba La Mật, ta cần lưu ý.
Tóm lại, tất cả hoạt động nhận thức đều phải dựa vào giác quan, trí năng hay tri thức (knowledge), và thông qua Xúc (contact). Không có xúc, hoạt động của thọ không được thành lập, và như vậy biểu tượng nhận thức (symbolic cognition) cũng không xảy ra. Trung tâm não bộ cũng không đóng được vai trò lập thành nhận thức sâu sắc hoặc thô sơ. Từ đó chúng ta thấy giác quan không những là phương tiện qua đó con người tiếp xúc ngoại giới mà trong đó con người nhận biết rằng mình đương hiện hữu. Đồng thời, giác quan cũng là phương tiện qua đó con người có những kinh nghiệm nhận thức. Từ những kinh nghiệm này, giúp đỡ con người tiến đến cải tạo môi trường chung quanh, cải tạo tâm, quân bình lối sống và cao hơn nữa là phát triển trực giác hay phát triển trí tuệ bát nhã và cuối cùng là tự tại ra đi khi đã hết duyên với thế gian.
3. Đối tượng NHẬN THỨC
Cái gì hiện hữu là đối tượng. Như vậy, mọi vật trở thành đối tượng vì mọi vật hiện hữu. Nhưng vì hiện tượng thế gian (all things of universe) hiện hữu bằng nhau, chúng sẽ là đối tượng như nhau của tri thức chúng ta. Tất cả sẽ được nhận thức vì chúng hiện hữu.
Mô thức liên quan hay sơ đồ được dùng để tổ chức thông tin, và nhận thức thiện xảo (cognitive skills) gồm những qui luật có thể được trình bày bằng biểu tượng trong hình thái:
Nếu cái này có mặt, cái kia có mặt.
Nếu cái này diệt, cái kia diệt.
Hay qua bốn chữ: Có, Không, Sinh, Diệt.
Chú ý: - Trong lúc đó tuệ trí không lời hiện hữu mà không cần đối tượng. Nó không luôn luôn liên kết với đối tượng hay thực tại.
Đối tượng nhận thức có 3 loại: có mặt, vắng mặt và siêu vượt (transcendent).
- Có mặt: - Khi một đối tượng được Phật nói có mặt, nó phải được thử nghiệm bằng tri giác trực tiếp. Thí dụ, như vàng ròng (the purity of gold) được thử bằng lửa.
- Vắng mặt: - Nếu đối tượng (vàng ròng) không được nhận ra rõ ràng chính xác bằng sự hiểu biết thông thường, nó phải được thử bằng (âm thanh). Đây là thử nghiệm bằng tri giác gián tiếp, tức bằng suy luận hay bằng trí năng sắc bén hoặc bằng sự phân tích của tánh giác. Thí dụ, như vàng ròng được thử bằng sự chạm vào đá. Ta nhận ra âm thanh trong trẽo của nó khác với âm thanh của vàng có pha trộn với kim loại khác. Ta phân biệt được giữa vàng thật và vàng giả.
- Siêu vượt: - Nhưng nếu đối tượng siêu vượt, không thể thử bằng lửa hay chạm đá, nó phải được thử bằng sự chứng minh khác, không mâu thuẫn, không biện chứng, như hạt ngọc (a jewel) không thể thử bằng lửa và chạm vào đá, vì cả hai thứ này không thích hợp để thiết lập sự ròng (the purity) của chính vàng. Trong trường hợp này được xem như khi chúng ta có bài kinh liên hệ đến những chủ đề siêu vượt, ngoài lý luận do Phật thuyết như Không, Như Thật, Chân Như, chúng ta cần phải hiểu siêu vượt là vật tối hậu như nó trong chính nó, nó không những thực mà còn thực sự trong chính nó, dù không cho một khái niệm, vì bằng chính thể (essence) của nó nó là không khái niệm.
Chú ý: - Chúng ta cần phân biệt giữa hai đối tượng siêu hình và siêu vượt.
4. ĐẶC TÍNH
Thí dụ, khi học lái xe, ta phải hiểu rõ cách lái xe như thế nào. Cũng như khi học về Chân như, ta phải hiểu rõ bên ngoài và bên trong Chân như ra sao. Nếu không hiểu rõ, tức ký ức sự kiện riêng lẻ (memory of individual facts/events) chưa được ghi lại thành dấu vết trong tâm.
Vì thế, đặc tính nhận thức không phải là sự xem xét nội tâm, không phải tiếp thu hình ảnh nội tâm, cũng không phải xoay cái biết (awareness) vào bên trong (quen gọi là xoay ánh sáng trí tuệ) để nhìn tâm mà chính là hiểu rõ thực tại bên ngoài hay hiểu rõ chính bên trong thực tại đó như thế nào.
5. CHỨC NĂNG
Chức năng nhận thức có thể được đánh giá (assessed) như sau:
Chú ý: - Người mang nhiều thành kiến và chấp trước tuy cũng có nhận thức nhưng nhận thức đó không có chánh trí. Ngoài ra, chứng mất trí (dementia) tuy ý thức chưa mờ, nhưng mất chức năng nhận thức trong vòng vài ba tháng hoặc lâu hơn nữa.
6. BA LOẠI NHẬN THỨC ( hay BA NGUỒN NHẬN THỨC )
1- Nhận thức bằng giác quan: (Phát triển thân) - Cái gì được nhận thức bằng giác quan thì không bao giờ là nhận thức bằng suy luận.
Thí dụ, khi lửa được nhận thức bằng giác quan thấy (the sense of vision), đó là lửa có mặt trong tầm nhìn của mắt. Lửa được nhận thức trực tiếp từ nơi mắt, không qua suy luận của trí năng. Trong trường hợp này đối với các nhà duy thực (realist), giác quan đóng vai trò nhận thức trực tiếp, họ gọi giác quan này là giác quan tri giác (sense-perception). Khoa học gọi là vùng Kiến giải Tổng quát.
Đặc tính của giác quan tri giác chỉ nhận thức bằng vật trống rỗng (the bare thing). Trong đó vật chỉ chính nó mà thôi (thing-in-itself). Trong đó không có tất cả những liên quan đến cái khác hay những đặc tính chung của vật. Thí dụ, thấy lửa; biết có lửa. Thấy khói; biết có khói. Nói theo ngôn ngữ Thiền tông, đó là tự tướng của vật được nhận thức bằng tánh thấy. Ta không thể thêm điều gì nữa về đối tượng. Trên cơ sở này, với nhận thức bằng giác quan tri giác con người có khả năng đạt được trực giác trí hay tuệ trí.
2- Nhận thức bằng suy luận: (Phát triển tâm) - Cái gì được nhận thức bằng suy luận thì không bao giờ là nhận thức bằng giác quan. Thí dụ, khi thấy khói, khói là đối tượng trong tầm nhìn của mắt, nhưng qua thấy khói, ta suy luận có lửa. Lửa được nói lên là nhận thức bằng suy luận chứ không bằng giác quan tri giác. Vì mắt không thấy lửa mà chỉ thấy khói. Lửa ngoài tầm nhìn của mắt. Lửa được nhận thức bằng suy luận. Trong suy luận hình ảnh đối tượng được nhận thức gián tiếp, có nghĩa mơ hồ (vaguely) hay trừu tượng (abstractly), bởi vì ta chỉ nhận thức qua dấu hiệu của nó là khói chứ không thấy tận mắt qua dấu hiệu của nó là lửa. Trong trường hợp này, trí năng đóng vai trò suy luận nhận thức. Do đó, vật chính nó được nhận thức bằng giác quan, nhưng khi có mặt trí năng thì những đặc tính riêng hay đặc tính chung của vật được lập thành bằng sự tưởng tượng hay tô vẽ của trí năng. Vật không còn được thể hiện theo tự tướng của nó nữa.
Cho nên, cái gì được nhận thức bằng suy luận là nhận thức của trí năng. Cái gì được nhận thức bằng trí năng thì không bao giờ là nguồn cội của trí tuệ. Trong nhận thức này luôn luôn chứa tư tưởng nhị nguyên (dualistic thoughts); thành kiến, định kiến và quan niệm chủ quan thường trực xuất hiện trong nhận thức suy luận.
3- Nhận thức ngoài cảm giác: (Phát triển tâm linh) - Hiểu biết hay biết như thực là loại nhận thức ngoài cảm giác (extra-sensory). Hiểu biết này được có là do thọ trong sạch hay tâm không dính mắc đối tượng tạo nên. Trong tiến trình cảm thọ này không có thành kiến, định kiến và thiên kiến chủ quan xuất hiện. Người có kinh nghiệm biết thầm lặng -tacit knowing or tacit awareness- hay biết thanh thản -serene awareness- là người có nhận thức ngoài cảm giác. Nhận thức này là nhận thức không lời (worldless cogniton), nó không dựa vào trí năng mà dựa vào tánh biết (Hệ NguyênThủy gọi là thức tri, thiền tông gọi là Phật Tánh) cơ sở của nó là vùng Precuneus.
Trong Phật giáo Nguyên Thủy, Nhận thức ngoài cảm giác, nhận thức trong sạch hay nhận thức tâm linh là nền tảng của Vô sanh trí. Trong Phật giáo Phát Triển, nhận thức tâm linh là nền tảng của Trí tuệ Bát Nhã. Thuật ngữ Thiền tông gọi nó là Tánh giác. Tất cả người thường tuy cũng có năng lực này, nhưng họ không nhận ra nó vì họ chưa được hướng dẫn hay chưa có kinh nghiệm thực sự về nó. Do đó, năng lực này được xem là năng lực ngoại lệ. Nhận thức trong sạch chính là năng lực của Thọ thanh tịnh. Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được Thọ thanh tịnh. Người còn nhiều khát ái, nhiều vướng mắc, không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác. Khi tâm bị ngũ chướng đè nặng, nhận thức trong sạch không thể có. Từ đó, trí huệ không làm sao tự phát. Vì vậy, năng lực nhận thức ngoài cảm giác luôn luôn là nền tảng của trí tuệ bát nhã hay trí tuệ tâm linh. Tức là thông qua giác quan tiếp xúc đối tượng bất chợt trong đầu vị đó lóe lên một kiến giải đặc biệt nào đó mà không có liên quan gì đến thực tại của vị ấy. Nó cũng gọi là trực thức hay trực nhận.
7. TÁC DỤNG
Tất cả hành động có kết quả của con người, bao gồm trong việc đời cũng như việc đạo, đều được đặt trên chánh trí (right knowledge). Thiếu chánh trí, con người không làm sao đạt được kết quả điều mình mong đợi.
Muốn có chánh trí, ta cần có nhận thức đúng về đối tượng cũng như sự việc liên hệ đến hoạt động của ta. Chính nhận thức đúng giúp ta có quyết tâm hay xét đoán những vấn đề khó khăn được dễ dàng hơn. Như vậy, nhận thức đúng là nhận thức đưa đến thành công. Nhận thức sai lầm thì đưa đến không thành công điều gì hay đưa đến thất bại. Vì nhận thức sai lầm đưa đến lạc lối, lạc đường (astray), nó làm cho chúng ta có những hành động hay việc làm sai lầm. Do đó mục tiêu nhắm đến hay những điều chúng ta mong đợi, mong chờ không làm sao đạt được.
Thí dụ: bắt chước quí vị tăng ni tu thiền nhập thất, một người không có vốn liếng pháp học về thiền cũng nhập thất như họ. Đây là nhận thức sai lầm. Vì ta không được trang bị pháp học, pháp hành, ta biết gì để ứng dụng khi nhập thất ?
Nguồn của chánh trí là không mâu thuẫn với kinh nghiệm. Vì người có chánh trí là người đã có kinh nghiệm về điều họ đã trải qua. Họ biết làm như thế sẽ thành công. Họ không phải là người mò mẫm mà là người đã trải qua kinh nghiệm. Lời nói của họ chân thực. Mỗi nhận thức của họ đều không mâu thuẫn với kinh nghiệm, vì nó là nguyên nhân của thành công với hành động có mục đích. Cho nên, trên phương diện tâm linh, chánh trí đưa đến đạt được mục tiêu, tà trí đưa đến thất bại tâm linh. Chánh trí không phải là nhận thức cái Tuyệt đối, nhận thức sự vật như thực, hay tri thức thực tại hay không thực tại của ngoại trần. Thông thường, con người hằng đeo đuổi các đối tượng bên ngoài, giác quan của họ luôn luôn bị dính mắc với chúng. Họ bị chúng chinh phục. Tà trí theo đó xuất hiện trong tâm họ.
Thực tại tuyệt đối chỉ có nhận thức được bằng trí tuệ bát nhã. Trong đó không có luận lý hợp lý theo luận lý học thế gian. Nhận thức là một nhận thức mới, nhận thức của đối tượng chưa được nhận thức. Nó là cái nhận thức lúc đầu, cái loé sáng biết đầu tiên khi ánh sáng của nhận thức được rực lên (kindled). Đây là cái nhận thức không lời (wordless cogniton). Nhận thức này được liên tục kéo dài, cái biết (awareness) trở nên vững chắc và lâu dài (enduring). Nguồn của chánh trí xuất phát từ mỗi nhận thức. Nguồn của trí tuệ tâm linh được đặt trên sự lâu dài của nhận thức (enduring cognition). Ký ức, tình thương, sân hận là những đối tượng đã được nhận thức rồi, chúng không phải là nguồn của chánh trí. Yếu tố nhận thức của tâm chúng ta được giới hạn ngay lúc chúng ta đạt được cái lóe sáng biết đầu tiên về đối tượng trước mặt. Sau đó, đối tượng được lập thành hình thể, hay hình ảnh. Nó là sự nhận ra (recogniton) chứ không phải là nhận thức.
Thí dụ:
- Trong nhận thức sự vật như thực, tác dụng của nhận thức này đưa đến tâm trong sạch và thuần nhất. Tâm chỉ và tâm định được đặt trên cơ sở nhận thức sự vật như thực.
- Trong nhận thức không lời, đưa đến phát triển trực giác. Nó là nền tảng của sự thành tựu trí tuệ Bát Nhã. Trong cái lóe sáng biết đầu tiên, nó đã có mặt.
- Trong nhận thức đúng đối tượng đưa đến chánh trí. Đó là biết (knowledge) không mâu thuẫn với kinh nghiệm.
Tất cả hành động có kết quả của con người, bao gồm trong việc đời cũng như việc đạo, đều được đặt trên chánh trí (right knowledge). Thiếu chánh trí, con người không làm sao đạt được kết quả điều mình mong đợi. Người bình thường tuy cũng có nhận thức nhưng không khai triển được tiềm năng giác ngộ thông qua nhận thức đặc biệt của họ. Trái lại, người bắt đầu đi vào dòng Thánh có khả năng khai triển nhận thức không lời của họ để thành tựu trí tuệ Bát Nhã. Nhận thức không lời là cơ sở tạo ra tiềm năng giác ngộ từ nơi vùng Precuneus.
* Loài thú tuy cũng có nhận thức nhưng chúng sống theo bản năng nên không có nhận thức sâu sắc và rộng lớn bằng loài người. Người sống theo bản năng hay sống theo thói quen cũng không khai triển được nhận thức sâu sắc và rộng lớn.
Kết luận:
Muốn ứng dụng những chủ đề lớn trong hệ thống kinh Bát Nhã như Không, Chân Như, Huyễn, người thực hành cần được trang bị lý luận và các kỹ thuật thực hành.
Bài Nhận Thức này cốt yếu là nhắm hướng dẫn quí vị thiền sinh hiểu biết rõ ràng về chức năng của nhận thức để khi đương đầu hay đối diện với tình huống dù khó khăn đến mấy chúng ta cũng có thể mở ra con đường tiến thẳng đến nơi giác ngộ và giải thoát. Mục đích yêu cầu của bài pháp này là nhắm chỉ rõ cách thực hành để làm sao cho tất cả quí vị đều biết hướng dụng công mà ko sợ bị “tẩu hỏa nhập ma”. Để cuối cùng tất cả quí vị đều có nhận thức biết không lời.
Nhận Thức là phương tiện cơ bản nền tảng, giúp người thực hành có khả năng tiến sâu vào những lãnh vực trừu tượng (abstract) và siêu vượt (transcendental aspects) của Bát Nhã. Thiếu nắm vững lý luận nhận thức và không thiết lập được nhận thức về đối tượng hay thực tại, thì mục tiêu của Thiền khó có thể thành tựu. Vì thế, mong tất cả quí vị nắm vững bài Nhận Thức này để thực hành các chủ đề lớn trong tu định như Không tầm Không Tứ Định, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và cuối cùng là định Atakkāvacara - Phật gọi là xả niệm thanh tịnh.
________________________________
Các BÀI DỌC THÊM Khóa Chuyên Tu Thiền Định tập trung tại LINK:
https://www.tanhkhong.org/p1551/bai-doc-them-khoa-chuyen-tu-thien-dinh