HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

HT Thích Thông Triệt: GIÁO TRÌNH_Các BÀI ĐỌC THÊM: TẠI SAO TU THIỀN PHẢI DỪNG VỌNG TƯỞNG

18 Tháng Tư 202211:18 SA(Xem: 2253)

TẠI SAO TU THIỀN PHẢI DỪNG VỌNG TƯỞNG

Trích trong bài đọc thêm "Tại sao tu thiền phải dừng vọng tưởng"

do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn

 

sư phụ

 

 

Tất cả ý nghĩ tạo thành vọng tưởng, kể cả sự suy nghĩ đều được lập thành dựa trên sự nói thầm hay đối thoại thầm lặng trong não. Không có sự nói thầm hay đối thoại thầm lặng, vọng tưởng hay suy nghĩ không được thành lập. Nếu nắm vững nghĩa này, ta sẽ biết cách thực hành "Không Theo Vọng." Còn không nắm được nghĩa đàng sau của vọng tưởng, ta vẫn chơi trò chơi cút-bắt với vọng.

Hỏi: - Thế nào là chơi trò chơi cút-bắt với vọng?

Đáp: - Đó là ta dùng nhiều lời có nội dung, rồi nói lên lời đó để hy vọng dừng được vọng. Đây là chơi trò chơi cút-bắt với vọng. Vì ta không bao giờ dừng được vọng với lời có những ý nghĩ kèm theo để hy vọng là vọng tự dừng.

Thí dụ như nói: "Ta hãy quay đầu lại, đừng phóng tâm ra ngoài. Càng ngó ra ngoài, ta càng theo vọng."

Hoặc nói: "Cái khổ của con người là do chúng ta không biết buông vọng. Nó không phải là mình mà chúng ta cứ nhận giặc làm con. Như vậy, chúng ta làm sao giải thoát được. Chúng ta biết nó là giả rồi, nó là giặc rồi, chúng ta đừng theo nó nữa ! Chúng ta hãy buông nó đi ! "

Hoặc: "Biết tất cả danh vọng, địa vị, của cải trên thế gian này đều giả, ta chớ nên theo nó. Buông nó đi để quay về với chân tâm. Đừng chạy theo nó nữa. Nó là vọng."

Ba thí dụ trên là ba "nhóm từ đùa giỡn với vọng." Nếu ta cứ đặt ra nhiều lời mang nhiều ý nghĩa cao siêu hay hàn lâm để hy vọng dừng được vọng, thì đây là ta chơi trò chơi cút-bắt với vọng. Ta không làm sao dừng được vọng. Ta buông được vọng này, vọng khác lại trồi lên ! Chỉ vì vọng chính là lời. Ta càng dùng lời để hy vọng đạt được không theo vọng, ta càng theo vọng liên tục.

Tóm lại, bất luận chủ đề Thiền nào, ta cần nắm rõ nghĩa đàng sau của dụng ngữ hay thuật ngữ, rồi sau đó thiết lập kỹ thuật để thực hành. Nếu chỉ nắm nghĩa đàng trước, ta sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu. Ta chỉ chơi trò chơi cút-bắt với niệm, hoặc giải thích dần lân về ý nghĩa dụng ngữ hay thuật ngữ Thiền. Trên mặt kiến thức, nghĩa đàng trước rất hay, nhưng trên mặt thể nghiệm hay thể nhập chủ đề, ta không làm sao "uống nước nóng lạnh tự biết" bằng những lời giải thích dần lân được.

Hỏi - Ai khởi vọng ?

Đáp: - Vọng khởi dưới hai dạng. Dạng ta tự nói thầm về nhiều chủ đề nào đó, và dạng vọng tự khởi lên từ các vùng ký ức vận hành, ký ức dài hạn, hay ký ức ngắn hạn. Đây là dạng ngoài tầm kiểm soát của ta. Ta không muốn khởi mà vọng vẫn cứ khởi. Cuối cùng ta bị bao vây trong mạng lưới vọng mà không hay biết.Ta có thể lập sơ đồ như sau:


các loại ký ức

 


Ký ức vận hành (Working memory) được xem như ký ức ngắn hạn vì nó không giữ các dữ kiện lâu dài. Vị trí của nó đóng tại vùng tiền trán. Vì chúng ta có 6 căn, nên nó có 6 loại ký ức vận hành. Nó giữ hình ảnh, dữ kiện trong tâm trong thời gian ngắn, như đọc sách, xem truyền hình, nghe băng nhạc. Nó nhận và giải mã dữ kiện ra thành hình ảnh trong tâm. Hình ảnh này chỉ được nhận ra bằng nhận thức ấn tượng. Nó cũng giúp chúng ta nhớ bằng suy tính hay tính rợ (tính mà không cần viết ra thành lời).

Các định khu ký ức thường khởi lên tạp niệm lăng xăng trong lúc ta ngồi thiền. Đây là những niệm ngoài phạm vi kiểm soát của ta. Chúng có khả năng dệt thành những mẩu chuyện đối thoại thầm lặng suốt thời thiền.

Riêng các phạm vi suy nghĩ, lý luận, trí năng, và ý thức là do ta khởi niệm nói thầm hoặc đối thoại thầm lặng.

Hỏi: - Vọng khởi ra như thế nào ?

Đáp: - Nó khởi ra bằng dạng nói thầm dưới nhiều chủ đề khác nhau thuộc các phạm vi liên hệ đến đời sống của từng thành phần giai cấp, giới tính, chủng tộc, nghề nghiệp, truyền thống, và tín ngưỡng của con người trên ba thời khác nhau.

Thí dụ

-    Người hấp thụ truyền thống Đông phương khởi vọng khác người có truyền thống giáo dục Tây phương.

-   Hiện tại khởi khác, tương lai khởi khác, quá khứ khởi khác.

-   Nam khởi vọng khác hơn nữ.

-   Già khởi vọng khác hơn trẻ.

-   Người tu Thiền khởi vọng khác hơn người tu Tịnh.

-   Người đạo Phật khởi vọng khác hơn người Hồi giáo.

-   Nhà nông khởi vọng khác hơn nhà văn.

-   Họa sĩ có những vọng tưởng không giống như thi sĩ.

-   Nhà báo khởi vọng khác hơn người làm công tác xã hội.

-   Nhạc sĩ khởi vọng bằng những khúc nhạc hùng hay êm dịu.

-     Người làm kinh tế thì vọng tưởng xoay quanh những vấn đề giá cả thị trường hay những mức độ sản xuất phù hợp với số nhu cầu của quần chúng.

-   Kẻ trộm khởi vọng khác hơn kẻ cướp.

-    Người tu theo Mật tông có những vọng tưởng khác hơn người tu theo Tịnh độ tông, v.v...

Tóm lại, vọng tưởng khởi tùy theo nhu cầu của người khởi vọng. Những nhu cầu này luôn luôn dựa trên các nguyên tắc:

1) Khi các căn tiếp xúc, hay chạm trán, hoặc đối diện trực tiếp với các trần, tức môi trường, tình huống, hay hoàn cảnh xã hội, thiên nhiên.

2) Sau đó vọng được thiết lập hay khởi ra.

3) Nội dung của vọng luôn luôn phù hợp theo trí tuệ và khuynh hướng nghề nghiệp hay tâm lý, nói chung là phù hợp theo từng căn cơ của người khởi vọng.

4) Vọng luôn luôn được biểu lộ trên ba phạm trù thời gian: quá khứ, hiện tại, và vị lai.

5) Nhưng điểm giống nhau của sự khởi vọng là tất cả đều bắt đầu bằng sự nói thầm hay đối thoại thầm lặng, rồi sau đó nói ra thành lời hay bằng chữ viết, hoặc cử chỉ tay chân.

Hỏi: - Động cơ nào thúc đẩy vọng khởi ?

Đáp: - Đầu mối vọng tưởng khởi là do ba tác nhân. Tác nhân thứ nhất là tâm ngôn chưa yên lặng, nên niệm nói thầm cứ tự do khởi lên. Đây là do quán tính giải mã của vùng Broca. Khi các căn tiếp xúc đối tượng, nó cứ giải mã liên tục làm cho ta không bao giờ ngưng nói thầm.

Tác nhân thứ hai là từ các vùng ký ức tự khởi lên những loại vọng tưởng tạp nhạp. Đây là lúc tạp niệm lăng xăng dao động khởi lên ngoài sự kiểm soát của tự ngã do các tín hiệu niệm (thought signal) phát ra từ các vùng ký ức. Hình ảnh quá khứ và niệm nói thầm cứ luân phiên đan kết trong tâm.

Tác nhân thứ ba là do tập khí hay lậu hoặc tác động vào tâm thức, khiến tâm ta phải dao động, khởi niệm qua sự biểu lộ bằng các tiến trình ngôn ngữ: hết tính chuyện này đến lo chuyện khác. Thèm muốn, ham muốn, khao khát, phóng tâm không bao giờ yên lặng trong sát na thời gian. Tâm ba thời khởi lên từ nguyên lý này. Quá khứ thì luyến tiếc, hối hận; hiện tại thì dính mắc với sở thích, thói quen; tương lai thì nguyện vọng, hoài bão. Do đó, chính tập khí hay lậu hoặc là nhân tố thúc đẩy tâm khởi lên vọng tưởng trong ba thời quá khứ, hiện tại, và tương lai. Ba loại nghiệp thiện hay ác của thân, lời, và ý cũng tiếp tục được xây dựng trên nguyên lý này. Tâm "ở đây và bây giờ" không thể nào có mặt được.

Tập khíthuật ngữ trong Phật giáo Phát triển, còn lậu hoặcthuật ngữ trong Phật giáo Nguyên Thủy. Cả hai đều là nhân tố cơ bản của tiến trình thiết lập thân nghiệp, lời nghiệp, và ý nghiệp của con người.

Cả hai thuật ngữ tập khílậu hoặc chỉ cho những quán tính đam mê, ghiền nghiện dục lạc thế gian vốn tiềm tàng trong nghiệp thức con người. Từ ham mê tiền bạc, tài sản, của cải vật chất, say đắm sắc dục, ham thích ăn uống, ngủ nghỉ, khoái thích địa vị, danh thơm tiếng tốt, say mê các quyền lợi vật chất hay tinh thần đến đam mê những quan điểm, quan niệm thuộc các phạm vi triết học, văn chương, văn hóa, văn nghệ, học thuật, tín ngưỡng, xã hội, chính trị, kinh tế... Chúng đã ăn sâu trong tâm thức ta từ khi ta có ý thức sống trên thế gian này. Chúng tạo thành những thứ ghiền nghiện, đam mê dục lạc, uy quyền, danh lợi mà tất cả thành phần giới tính, già trẻ, giai cấp, và thành phần tu sĩ hay không tu sĩ khó từ bỏ được. Chính vì thế, vọng tưởng cứ khởi ra mãi qua những hình thức suy nghĩ, nói năng, và hành động của ta. Tâm cứ di động theo những đam mê, ghiền nghiện nói trên để tìm cách thỏa mãn những khao khát. Chỉ khi nào ta sạch hết tập khí/lậu hoặc, vọng tưởng mới không còn khởi lên. Khi tập khí/lậu hoặc còn, vọng tưởng còn khởi. Vì vậy, trên phương diện này, chư Tổ dạy ta tu để dừng vọng hay không theo vọng để tâm được giải thoát, tri kiến được giải thoát.


Chung quanh vấn đề giả và thật

Hỏi: Tại sao chư Tổ nói vọng tưởng là "giả, không thật," còn chúng ta cho rằng vọng là "thật ?"

Đáp: - Đứng trên mặt thể tánh hiện tượng, chư Tổ nói vọng tưởng là "giả," "không thật," vì các ngài nhận ra bản thể nó "Trống không," hay "Không" (Śūnyatā = Emptiness), nên nói nó "không thật." Nó "hư giả." Và sự hiện hữu của nó là do duyên sinh. Tức là do nhiều điều kiện kết hợp lại để lập thành vọng tưởng trong tâm chúng ta. Chứ không phải vọng tưởng tự nhiên mà có. Vì thế, sự có của vọng tưởng là “giả có”. Nhưng thực chất tính của nó là "Không." "Không" là thể tánh hay bản thể (nature) của nó. Trái lại, trên mặt tác dụng, ta thấy nó không giả. Nó có thật.

Thí dụ, buồn, vui, sầu, khổ, thương, ghét, lo âu, sợ hãi, sân hận là những phản ứng của tâm. Những phản ứng này có thật. Bởi vì chính ta biểu lộ những sắc thái xúc cảm đó ra ngoài mặt, lời nói và hành động cử chỉ. Ta không thể nói nó "không có !" Đồng thời cũng do ta kinh nghiệm được, cảm nhận được, thấy được, biết được những sắc thái xúc cảm đó xảy ra như thế nào trên thân và tâm của ta.

Cho nên trên phạm vi cảm nhận hay cảm thọ này, ta nhận ra vọng tưởng là "thật có." Nếu nói rằng nó không có tại sao nó chi phối hay tác động tâm ta, đưa đến ta phải biểu lộ những sắc thái xúc cảm khác nhau đối với người chung quanh hay đối với đối tượng trước mặt ? Chẳng hạn, khi vui, ta biểu lộ khác; khi giận ta biểu lộ khác; khi buồn, ta biểu lộ khác.

Vọng luôn luôn biểu lộ trên hai mặt: ngấm ngầm hay công khai. Ngấm ngầm là nó tiềm tàng ray rứt trong tâm. Không bộc lộ ra bên ngoài thân hay lời. Còn công khai là nó biểu lộ qua phong thái cử chỉ, nói năng và thần sắc của ta đối với người khác hay đối với các đối tượng khác. Thí dụ như ánh mắt, nụ cười của ta biểu lộ như thế nào trên gương mặt, hay những xúc cảm hồi hộp qua những sự kích động của tim và sự tuần hoàn của máu mà ta cảm nhận được.

Qua cách nhìn với những truyền thống qui ước của người thế gian, dựa vào sự biểu lộ thần sắc, âm thanhcử chỉ của người khác, ta nói vọng tưởng là thật.

Thí dụ, qua sự chửi mắng của người khác, chính tai ta nghe rõ ràng nội dung chửi mắng, ta không thể bảo âm thanh đó là không thật, nội dung chửi mắng kia là không thật. Cũng như khi thấy sắc mặt xanh như tàu lá hay đỏ tía tai của người đương nổi sân, và tay chân họ đương có những cử chỉ thô tháo, dùng ngón tay xỉ xỏ ta, ta không thể bảo những sự biểu lộ đó là giả. Hoặc lỡ người đó tát vào má ta một cái đau điếng, ta không thể bảo cái tát kia là không thật được. Rõ ràng qua các giác quan của mắt, tai và thân, ta đã cảm nhận được những mức độ biểu lộ vọng của đối phương như thế nào và chính sự phản ứng từ nơi tâm của ta ra sao, khi ta bị ăn đòn đau điếng hay tỏ ra bực bội, giận tức đối với người khinh miệt ta, xài xể ta, mắng nhiếc ta.

Như vậy, trên mặt hiện tượng hay tục đế, vọng tưởng có thật. Nó do chính ta khởi lên và cũng do chính ta cảm nhận được. Nhưng nếu muốn tìm thực chất nó là gì, ta sẽ nhận ra nó không thực chất tính. Tức là nó trống không. Trống không là thể tánh (nature) hay bản thể của vọng tưởng. Với tâm giác ngộ, ta mới nhận ra được bản thể hiện tượng. Còn với tâm mê, ta không thể nào nhận ra được thể tánh vọng tưởng.

Vì thế, ở trường hợp này, trên mặt tục đế, chúng tôi nói "vọng tưởng là thật có." Để rồi từ đó ta tiến hành cách làm chủ nó. Cho đến khi nó không còn tự động khởi lên nữa. Bấy giờ ta mới đạt được mục tiêu dừng vọng hay không theo vọng. Khi thực sự đạt được dừng vọng, ta sẽ kinh nghiệm được thể tánh vọng tưởng là Không. Chữ "Không" này là thể tánh của hiện tượng, chứ không phải là "không có" trong nghĩa phủ định. Đây chính là lúc tâm ta không còn bị cảm thọ chi phối. Nghĩa là cảm thọ tuy có, nhưng không chi phối tâm ta, vì ta biết thể tánh của tất cả hiện tượng là Không.

Nhiều người lầm tưởng thể tánh với tác dụng. Khi nghe Phật và chư Tổ nói thể tánh hiện tượng là "Không", rồi cho rằng vọng tưởng là "không có."

Chúng tôi xin lặp lại: - ở đây, "Không" có nghĩa "tánh Không" hay "không thực chất tính." chứ không phải "không" là không có gì theo nghĩa phủ định. Nếu vọng tưởng không có, tại sao Thiền tông chủ trương tu để dừng vọng tưởng ? Hòa Thượng Thanh Từ dạy ta "Không Theo Vọng" ? Như vậy, đâu phải chư Tổ Thiền tông sai ? Tại ta hiểu sai ý nghĩa "Không" trong thuật ngữ Phật giáo. Ta nghĩ rằng "Không" là "không có gì." Chứ không ngờ "Không" là thuật ngữ được Phật dùng để chỉ bản thể hiện tượng. Nó có nghĩa "Trống Không." Từ Sanskrit là śūnya (tĩnh từ - empty) hay śūnyatā (danh từ - emptiness). Có nghĩa "Tánh Không."

Các ngài đã nhận ra thực chất tác dụng của vọng tưởng như thế nào đối với thân, tâm, và trí tuệ con người nên mới dạy ta tu để làm sao dừng cho được vọng tưởng; tu làm sao để không theo vọng. Vì nếu ta không dừng được, ba nghiệp thân, lời, và ý của ta sẽ chồng chất thêm lên nữa. Chấm dứt khổ đau, giác ngộ, và giải thoát sẽ không bao giờ trở thành hiện thực nơi ta.

Tóm lại, chư Tổ nói "vọng là giả, không thật" là do các ngài đứng trên mặt thể tánh của vọng mà luận. Còn đứng trên mặt tác dụng các ngài xem nó là thật, tuy các ngài không công bố điều này. Nhưng xét về lối dạy của các ngài, chúng ta tự hiểu rằng các ngài xem "vọng là thật." Nếu không xem nó là thật, tại sao các ngài dạy ta "Không Theo Vọng" hay dạy ta phải "Dừng Vọng" ? Và các ngài còn cảnh giác ta, "nếu cứ theo vọng, ta sẽ tiếp tục luân hồi trong lục đạo."

Do đó, trên mặt tục đế, chúng tôi cũng nói "vọng là thật", và hướng dẫn thiền sinh nhiều cách thực hành để dừng vọng hay làm chủ vọng. Có làm chủ vọng, ta mới thoát khổ. Không làm chủ được vọng, ta sẽ khổ mãi.

Tại sao khổ? Đó là tâm ta rối loạn do vọng tạo ra những mối xúc cảm tâm lý bất bình thường. Vui, buồn lẫn lộn. Lo âu, sợ hãi, hờn, ghen, ghét gia tăng. Kết quả đưa đến là thân sẽ đau ốm do tác dụng của những mối xúc cảm lo âu, sợ hãi, buồn, khổ, sân hận do tâm tạo ra. Sau cùng, trí tuệ ta không bao giờ được sáng. Sự dụng công tu thiền chắc chắn phải bế tắc chỉ vì vọng cứ thường xuyên bao phủ nội tâm. Thay vì làm chủ vọng, không theo vọng, ta lại để vọng tự do khởi lên. Nó cứ thúc đẩy trí năngsuy nghĩ dao động. Nếu trầm tĩnh được thì tốt, không trầm tĩnh được thì lọt hố. Đó là hố tội lỗi, hố sa ngã, hố tội ác. Rồi cũng từ đó, nghiệp chướng lại chồng chất thêm.

Tác động vọng tưởng với tâm, thân, và trí tuệ

Thông thường, nếu sự khởi vọng liên tục và mang nhiều nội dung xúc cảm ray rứt, ngấm ngầm, tác dụng của nó sẽ gây ảnh hưởng xấu đến ba mặt tâm, thân, và trí tuệ. Với tâm thì tinh thần ta sẽ căng thẳng hay phiền não triền miên, với thân thì đưa đến bệnh tâm thể, với trí tuệ thì đưa đến sự mê lầm, mê chấp hay điên đảo.

Tuy nhiên, vọng tưởng có thứ tốt và xấu. Thứ tốt là trọng tâm của vọng nhắm đến việc phụng sự nhân sinh với tinh thần bồ tát. Thứ xấu là những ý nghĩ, những tư tưởng đen tối. Những loại vọng này luôn luôn gây tác hại thân, tâm, và trí tuệ bằng những thứ tâm lý xúc cảm lo âu, phiền não, sợ hãi, sân hận, gây hấn, lừa đảo, đấu tranh, đố kỵ, gièm pha, thấy lỗi người, quên lỗi mình, ác ngôn, ác khẩu, và những âm mưu phá hoại.

Chính những thứ vọng tưởng này là tác nhân gây uất cảm (stress). Mạng lưới vọng tưởng càng gia tăng hoạt động, mức độ xúc cảm cũng theo đó gia tăng. Như vậy, uất cảm được tạo ra là dựa trên những tiến trình phát huy cao độ của những nội dung vọng tưởng khác nhau. Nếu vọng tưởng bị kiểm soát, uất cảm không xảy ra, thân và tâm sẽ được cân bằng; bệnh tâm thể do đó cũng không xảy ra. Như vậy, bệnh tâm thể có là do trạng thái uất cảm tạo ra những tác động dây chuyền trong não bộ và các hệ thống chất nước hóa học bên trong não và hệ tuyến nội tiết. Uất cảm có là do sự tác động của tâm lý xúc cảm. Tâm lý xúc cảm được tạo ra bởi những tiến trình hình thành vọng tưởng. Vọng tưởng khởi triền miên là do tự ngã không tỉnh, tức còn mê. Vì còn mê nên tâm còn dính mắc, chấp trước, và điên đảo.

Hỏi: - Tại sao tu thiền phải kiểm soát vọng tưởng ?

Đáp: - Bởi vì nếu không kiểm soát được vọng tưởng, tâm ta cứ dao động thường trực trước các đối tượng của giác quan. Từ đó ta sẽ không bao giờ kinh nghiệm được định, cũng không kinh nghiệm được tuệ trí. Phiền não, lo âu, sợ hãi, buồn, khổ, giận tức, bực bội, oán trách cũng theo đó xen kẽ khởi lên. Nếu xúc cảm càng gia tăng, tâm ta càng rối loạn, theo đó, ta không thể nào tránh khỏi bệnh stress, tức uất cảm. Nếu uất cảm thường xuyên gắn liền trong cuộc sống, chắc chắn ta khó tránh khỏi bệnh tâm thể. Đây là lý do ta phải kiểm soát vọng tưởng.

Hỏi: - Làm thế nào để không theo vọng tưởng ?

Đáp: - Bằng Thiền Quán, giúp ta nhận rõ chân tánh hiện tượng thế gian. Ta có nhận thức mới về thế giới hiện tượng, qua đó ta có thể hạn chế bớt những dính mắc vào hiện tượng thế gian. Ta sẽ hạn chế bớt sự chạy theo vọng tưởng. Bằng Thiền Định, ta thực tập cách không định danh đối tượng hoặc ta thực tập cách không nói thầm trong não. Bằng Thiền Huệ, ta áp dụng không dán nhãn đối tượng hoặc áp dụng cách thấy như thật, biết như thật, nghe như thật, xúc chạm như thật, nhận thức biết như thật.


 Hòa thượng Thích Thông Triệt biên soạn

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06 Tháng Tư 20248:52 SA(Xem: 688)
... chiếc “xe một số” chính là cái Biết, nó đưa ta từ bước đầu tới bước cuối con đường. Thực ra, có con đường nào đâu, vì cái biết là của mình, từ đầu nó vẫn trong sạch, tĩnh lặng, khách quan và chiếu sáng. Bạn hiền ơi, cứ lấy viên ngọc đó ra mà xài, hồn nhiên, đừng lăng xăng tạo tác gì thêm nữa.
06 Tháng Tư 202410:03 SA(Xem: 161)
Nur einfach die Augen aufmachen und das Objekt wahrnehmen, wie es ist, mit verbalem oder nonverbalem Bewusstsein, der Geist ist rein, ruhig und objektiv. Das ist der Naturgeist. Gebote, Kontemplation, Samatha, Samadhi und Weisheit sind vollständig in ihm vorhanden.
05 Tháng Tư 20246:46 CH(Xem: 175)
Bài Luận giảng này cho chúng ta biết rằng: điểm quan trọng bậc nhất của Thiền chỉ là làm chủ tâm ngôn. Không làm chủ được tâm ngôn, dù chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, đường Thiền của ta sẽ đến nơi bế tắc.
04 Tháng Tư 20241:07 CH(Xem: 264)
In Spring 1929, we cheered our Master’s coming into life. In Spring 1982, we celebrated the glory of our Master’s Recognition of the Path. In Winter 2019, he left us... But with those, this morning, under warm sunlight, while relishing the spring flowers, how come it seems someone’s eyes are full in tear.
29 Tháng Ba 20247:58 CH(Xem: 445)
Vậy qua giác quan, ta thấy “cái đang là”, đó là thấy Như Thực, giống như thiệt, chứ không phải thiệt có bền vững, thường hằng, mà đó cũng là “cái Như Huyễn”, như mộng mà thôi. ...cái Như Thực là thấy hiện tượng qua giác quan, còn cái Như Huyễn là thấy bản thể qua trí tuệ bát nhã.
29 Tháng Ba 20247:35 SA(Xem: 299)
5 LÝ DO chúng tôi chọn chủ đề: LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI
27 Tháng Ba 20246:45 SA(Xem: 301)
Heute, ein Frühlingsmorgen, blauer Himmel, weiße Wolken, warme Sonne und volle Kirschblüten vor dem Hof ​​des Sunyata Zentrums, möchte ich euch einen Meditations-Laib: Gebote, Samadhi und Weisheit anbieten, der aus dem reinen Wissen eines Naturgeistes gemacht wurde.
25 Tháng Ba 20249:43 SA(Xem: 321)
La nature du monde est vide, est vacuité. Ce n'est juste qu'une illusion. Cette sagesse nous donne la capacité de séparer notre mental de tout attachement au monde. Ce n’est qu’alors que l’on peut demeurer dans la conscience "Ainsi". Lorsque nous possédons la sagesse et la perspicacité pour reconnaître la nature du monde, alors il n’y a plus de chemin, plus besoin de dharma, plus de portes à ouvrir. Nous vivons vraiment dans notre maison spirituelle qui existe depuis toujours en nous.
24 Tháng Ba 20245:02 CH(Xem: 492)
Mùa xuân năm 1929, mừng Thầy đến, mùa xuân năm 1982, mừng Thầy thấy rõ con đường, mùa đông năm 2019, Thầy đi.... ...Biết vậy, mà sao sáng nay, trong nắng ấm, ngắm hoa xuân, lại dường như có ai rơi nước mắt.
24 Tháng Ba 20244:44 CH(Xem: 440)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: CON ĐƯỜNG GIỚI QUÁN ĐỊNH TUỆ ngày 16 tháng 3 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
24 Tháng Ba 202410:27 SA(Xem: 317)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Luận giảng số 1 GIỚI THIỆU CÁCH THỨC TẠO LUẬN
17 Tháng Ba 20243:11 CH(Xem: 408)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Lời Tựa
17 Tháng Ba 20242:16 CH(Xem: 577)
Chỉ là đơn thuần, mở mắt ra nhìn ngắm, cảnh thế nào nhận biết y như vậy, diễn nói hay thầm lặng, tâm đều trong sạch, tĩnh lặng, khách quan. Đó là chân tâm, Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ đầy đủ
13 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 438)
Unzählige Jahre habe ich törichterweise nach einem „Märchenland im Jenseits des Nebels“ gesucht. Wie oft bin ich dem Nebel begegnet und wie oft habe ich davon geträumt, ein Märchenland zu finden. Am Ende meines Lebens wurde es mir klar, dass das wahre Märchenland nirgendwo draußen ist, sondern es ist in mir.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 405)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 705)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 639)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 419)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 640)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 613)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 451)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 596)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 756)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 733)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 913)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 603)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 588)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 550)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 635)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 568)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 883)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 676)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 957)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 685)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1320)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 807)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 1092)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 894)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 1067)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 993)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 827)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 987)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 998)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 923)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 971)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 980)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 828)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1299)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1171)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
69,256