QUÁN “TỨ THÁNH ĐẾ” TRONG KINH “TỨ NIỆM XỨ”
I. QUÁN PHÁP TRÊN CÁC PHÁP
Quán pháp trên các pháp trong kinh Tứ Niệm Xứ được hiểu là nhìn sự vật bằng cái nhìn khách quan, nhìn cái đang là của đối tượng ngay trong hiện tại, dù đối tượng thiện hay bất thiện trong tâm không phản ứng đồng ý hay bài xích. Quán pháp được chia làm hai nhóm.
-Nhóm thứ nhứt Đức Phật đưa ra đề mục “Quán Ngủ Thủ Uẩn” giúp hành giả làm chủ thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận thức (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức). Đề mục thứ hai là “Quán Sáu Nội-Ngoại Xứ” giúp hành giả làm chủ được sáu giác quan: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý, khi các giác quan tiếp xúc với sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Trong tiến trình quán pháp này, hành giả trải nghiệm “cái này không phải là tôi, cái này không phải là tự ngã của tôi, cái này không phải là của tôi”, dẫn tới tình trạng viễn ly được sự “chấp ngã và chấp pháp”
- Nhóm thứ hai là nhóm “chân lý”. Chân lý là những sự thật xảy ra trong cuộc đời không ai tránh khỏi. Thực tập nhóm này, hành giả sẽ phát huy được tuệ giác hướng tới giác ngộ giải thoát. Trong phần quán pháp hôm nay chúng ta đề cập đến “bốn sự thật cao quý” kinh gọi là “Tứ thánh đế”. Tứ thánh đế là đề mục cuối cùng trong kinh Tứ Niệm Xứ ở phần quán pháp.
II. TÌM HIỂU KHÁI QUÁT NỘI DUNG “TỨ THÁNH ĐẾ”
“Tứ thánh đế” hay “Tứ diệu đế” là bài kinh nói về bốn sự thật hiện hữu trên thế gian bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Bài kinh này, lần đầu tiên Đức Phật giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển. Kết quả cụ thể là các vị đạo sĩ, sau khi nghe bài kinh này đã giác ngộ và chứng quả Thánh, chấm dứt phiền não. Chúng ta nhớ Kiều Trần Như là một trong những vị đạo sĩ nổi tiếng, được vua Tịnh Phạn mời vào cung xem tướng cho Thái tử Tất-Đạt-Đa lúc sơ sinh. Từ một vị đạo sĩ lỗi lạc thuở Thái tử còn sơ sinh. Vậy mà, thời gian sau này lại trở thành bạn đồng tu, rồi trở thành đệ tử của Đức Phật. Điều này cho thấy trí tuệ vĩ đại của Đức Phật quả thật không thể nghĩ bàn.
Tìm hiểu khái quát về nội dung bốn thánh đế:
A. KHỔ ĐẾ: Khổ dịch từ tiếng Phạn là Dukkha, nghĩa là đau đớn, phiền lòng, bực bội, bất như ý, không thỏa mãn... Khổ đế là sự thật về khổ đau, sự thật về bất toại nguyện, không hài lòng trong cuộc sống.. Cái khổ này không miễn trừ bất cứ một ai dù sống ở thời đại nào, dù nghèo, giàu, đẹp hay xấu... Từ lúc Đức Phật trình bày “sự thật về khổ” cho đến bây giờ trải qua mấy ngàn năm, vấn đề khổ vẫn không chấm dứt. Nói chung bản chất cuộc đời của con người là Khổ, nên Khổ là có thật. Khổ có hai loại:
- Khổ về sinh lý (thuộc về thân): Có 4 cái khổ là Sinh, Già, Bệnh, Chết. Sinh khổ (Sinh ra trong cuộc đời, con người ai cũng phải lo toan đối đầu với cuộc sống khiến con người chịu khổ), Già khổ (Thân thể theo thời gian bị lão hóa, già nua. Già thì mắt mờ, răng rụng, tay chân yếu ớt, không tự làm chủ lấy mình, cho nên khổ), Bệnh khổ (Tứ đại không hài hòa, các tế bào trong cơ thể già hoại sinh bệnh tật nên khổ), Chết khổ (Không ai tránh khỏi cái chết, vì sợ chết, nên khổ).
- Khổ về tâm lý (thuộc về tâm): Có 4 khổ: Oán tắng hội khổ (Người không ưa, chuyện không thích, mà cứ gặp hoài nên khổ), Ái biệt ly khổ (Yêu thương mà xa cách nên buồn nhớ khổ đau), Cầu bất đắc khổ (Cầu mong điều gì mà không được nên khổ), Ngũ ấm xí thịnh khổ (Năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức lúc hưng thịnh khỏe mạnh thì vui vẻ, đến lúc suy nhược, mệt mỏi, chán chường thì khổ).
Do tám cái khổ của sinh lý và tâm lý nêu trên, khiến tình cảm con người thường xuyên trải qua những cảm xúc: Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não. Năm phương diện cảm xúc này làm cho con người chìm vào trong cảm giác bất hạnh, nên khổ.
Tám loại khổ trên được phân thành ba loại đó là: Khổ Khổ, Hoại Khổ và Hành Khổ.
-Khổ khổ: Cái khổ trực tiếp, rõ ràng xảy ra cho con người như bệnh tật, già yếu, chết chốc, sự mất mát và những cảm xúc tiêu cực như buồn bã, lo lắng, sợ hãi v.v... Đó là những trải niệm đau đớn mà chúng ta có thể dễ dàng nhận ra và cảm nhận. Khổ-Khổ là khổ này chưa dứt thì khổ khác ập tới, có hai cái khổ cùng một lúc nên gọi là khổ-khổ.
Thí dụ: Làm bếp bị đứt tay, đau đớn đã khổ thân rồi (sinh lý khổ), ngay khi đó tâm nổi cơn thịnh nộ tức giận cái dao, hay tức mình không cẩn thận (tâm lý khổ), thì cái khổ sau chồng lên cái khổ trước, nên gọi là Khổ-Khổ, hoặc đang bực bội, vì thời tiết nóng nảy tác động lên thân (sinh lý khổ), mà trong nhà máy điều hòa không khí bị hư không làm việc khiến mình lo lắng phiền lòng (tâm khổ). Hai cái Khổ đến liên tục, Khổ này ập trên Khổ kia nên gọi là Khổ-khổ.
- Hoại khổ: Sự hủy hoại đưa đến sầu khổ. Sầu khổ phát sinh do sự thay đổi, biến hoại của vạn pháp. Thực vậy, mọi thứ trong thế gian không ngừng thay đổi từ tốt đẹp đến hư hoại biến mất, gọi là vô thường. Niềm vui hạnh phúc và những điều tốt đẹp rồi cũng sẽ mất đi. Và sự mất mát đó mang đến đau khổ. Hiện tượng vô thường này khiến cho con người luôn bị áp lực bởi tâm lý thương tiếc, sầu khổ mãi diễn ra trong tâm thức.
Thí dụ: Đau buồn khi người thân yêu qua đời, tiếc nuối vật sở hữu bị mất, đau thương vì mối quan hệ tình cảm yêu đương tan vỡ... Những loại đau khổ do vô thường gây ra như vậy gọi là Hoại khổ.
-Hành khổ: Đây là những hành hoạt của tâm thuộc về Hành uẩn. Hành uẩn bao gồm những suy nghĩ lăng xăng, những trạng thái tiêu cực hay tích cực. Nếu không làm chủ được tâm, thì những ý nghĩ đó bộc phát ra thành hành động và lời nói tạo Nghiệp. Dù Nghiệp thiện hay bất thiện cũng là nguồn gốc dẫn dắt chúng sanh trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử chịu nhiều đau khổ.
B. TẬP ĐẾ: Đế thứ hai trong bài kinh Tứ thánh đế là Tập đế, là sự thật về nguồn gốc của khổ đau bao gồm tham ái, lòng ham muốn, bám víu, chấp thủ. Muốn mà không được nên khổ. Được rồi sợ mất nên khổ. Chấp thân này là tôi, của tôi nên khổ. Về tham ái, Đức Phật chia ra ba loại tham ái:
1. Dục ái: Là dính mắc, tham ái đối với các đối tượng giác quan: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Tham lam hưởng thụ lạc thú từ ngũ dục: Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy. Vì tham ái ngũ dục mà có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, say sưa rượu chè. Dục lạc thế gian là ô uế lạc, là bất tịnh lạc. Người nào dính vào những thứ mình thích, sẽ đau khổ khi mất chúng, nên dục ái là nguyên nhân đưa đến đau khổ.
2. Hữu ái: Là tham ái đối với sự tồn tại và tái sinh, tức mong muốn được sống đời này và đời sau. Hữu ái thường đi kèm với quan niệm “thường kiến”, tin rằng có một cái gì đó thường còn bất biến và mong muốn cái đó được tồn tại sau khi chết. Vì muốn được tồn tại nên con người khổ vì sợ hãi cái chết.
3.Vô hữu ái: Là tham ái đối với sự không tồn tại, sự đoạn diệt. Mong muốn chấm dứt sự tồn tại hoặc tái sinh. Có câu thơ: “Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo” để mô tả trạng thái tuyệt vọng, chán ngán kiếp sống của con người. Vô hữu ái thường đi kèm với chủ nghĩa “đoạn kiến”. Người đoạn kiến, tin rằng không có gì tồn tại sau khi chết, cho nên có người sống bất chấp đạo đức, họ cho rằng sống đạo đức cũng được, không đạo đức cũng được miễn sao những thứ đó phục vụ tốt cho nhu cầu đời sống là họ sẵn sàng thực hiện. Nhưng làm người sống ở bất cứ quốc gia nào, đều phải tuân theo luật lệ của quốc gia đó. Nếu có những hành vi trái với luân thường đạo lý, giết người cướp đoạt tài sản... Ở đây chưa bàn tới luật nhân quả trong nhà Phật, mà chỉ nói đến luật lệ thế gian, liệu người phạm tội này có tránh được nỗi khổ tù tội vì bị luật thế gian trừng trị hay không?
Nói chung do Vô minh nên con người chìm đắm trong Tham ái nên mới khổ. Muốn hết khổ thì phải đoạn tận Vô minh bằng cách học hỏi tu tập nhận ra mọi thứ trên đời này là Vô thường, từ đó không còn chạy theo những quyến rủ của dục vọng nữa.
C. DIỆT ĐẾ: Diệt đế là sự thật thứ ba trong kinh Tứ Diệu Đế, là phần quan trọng trong giáo lý Phật đà, vì Diệt đế là điểm cần đến của người tu hành. Khổ có nguyên nhân, nên khi đoạn tận nguyên nhân gây ra Khổ, thì hết Khổ, kinh gọi là Diệt đế. Đó là trạng thái Niết-bàn, tịch diệt, an lạc. Niết-bàn không phải là nơi chốn, không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ, mà nó là trạng thái an lạc hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý vắng mặt Tham, Sân, Si. Niết-bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ tiêu biểu trong kinh như Vô sanh, Giải thoát, Vô vi, Vô lậu, Đáo bỉ ngạn, Tịch tĩnh, Chân như, Thực tướng, Pháp thân v.v...
D. ĐẠO ĐẾ: Là con đường đạo, gồm tám phương thức tu tập chấm dứt khổ đau gọi là Bát chánh đạo. Bát chánh đạo gồm: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
1) Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn. Kiến là nhận biết, là thấy, là quan niệm. Chánh kiến trong Bát chánh đạo là sự nhận thức sáng suốt và hợp lý trên căn bản của trí tuệ như: Mọi hiện tượng thế gian thành hình đều do nhân do duyên sanh và chúng luôn luôn biến dịch thay đổi, nên chúng vô thường, vô ngã. Nhận thức rõ về Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, không chấp thường, chấp đoạn. Nhận thức rõ về nhân quả-nghiệp báo. Nhận rõ tất cả chúng sanh cùng một bản thể thanh tịnh... Tóm lại Chánh kiến là những lời giảng dạy của bậc đại giác ngộ là Đức Thế Tôn.
2) Chánh tư duy: Là những suy nghĩ chân chánh, tích cực hướng thiện, không trái với lẽ phải. Chánh Tư duy ở đây là dựa trên Chánh kiến mà tư duy tìm hiểu thật rõ ràng những điều đã nghe giảng để chuyển hóa tâm của mình, loại bỏ những tà kiến sai lầm, hoàn thiện đạo đức sâu sắc.
3) Chánh ngữ: Là lời nói có Chánh kiến, có Tư duy, nghĩa là khi giao tiếp với mọi người, hành giả chỉ nói lời chân thật không dối trá, không nói hai chiều gây chia rẽ, không nói lời thô tục hung dữ, cũng không nói những lời phù phiếm vô ích.
4) Chánh nghiệp: Nghiệp là những hành động có tác ý. Chánh nghiệp là hành động đúng đắn tránh ba loại ác nghiệp: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, ngược lại luôn có hành động tôn trọng sự sống của sinh vật, tôn trọng tài sản của người khác, giữ gìn phẩm hạnh trong các mối liên hệ.
5) Chánh mạng: Nuôi sống bản thân bằng nghề nghiệp lương thiện không tổn hại riêng mình và người khác, không vi phạm giới luật và không bị thúc đẩy bởi tham, sân, si. Các nghề không chân chánh Đức Phật đề cập tới là: Buôn bán vũ khí, Buôn bán người (nô lệ hoặc mại dâm), Buôn bán thịt động vật, Buôn bán rượu và chất gây nghiện.
6) Chánh tinh tấn: Là sự nỗ lực bền bỉ, tỉnh thức, không buông lung trong việc tu tập thiền định. Chánh tinh tấn là sự siêng năng một cách khôn ngoan không quá cố gắng đưa đến sự kiệt quệ của thân và tâm. Ngoài việc siêng năng công phu thiền định. Chánh tinh tấn loại bỏ những thói quen bất thiện, phát triển những phẩm chất tốt đẹp.
7) Chánh niệm: Là khả năng tỉnh thức, ghi nhận, quan sát khách quan những gì xảy ra trên thân tâm ngay trong hiện tại bây giờ và ở đây. Đối tượng như thế nào biết như thế đó, không dính mắc hay bài xích. Nhờ vậy mà tâm hành giả được yên lặng, không bị cảm xúc chi phối. Chánh niệm trong mọi lúc đi đứng nằm ngồi, giúp hành giả dần nhận ra đặc tính vô thường, khổ, vô ngã nơi thân tâm.
8) Chánh định: Khi tọa thiền tâm yên lặng, tư tưởng tập trung không tán loạn thì đó là giai đoạn vào định, là trạng thái an trú trong các tầng thiền (Jhàna). Có 4 mức độ Chánh định là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Trạng thái thanh tịnh của mỗi tầng thiền không giống nhau. Sơ thiền được xây dựng từ sự “ly dục, ly bất thiện pháp”. Nghĩa là tâm không còn tham, sân, hoài nghi, hôn trầm, trạo cử, vì bấy giờ trong tâm xuất hiện năm chi thiền, đó là tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Lên Nhị thiền thì buông bớt tầm, tứ. Tam thiền thì buông thêm hỷ. Đến Tứ thiền thì tâm chỉ còn nhất tâm, mới hoàn toàn bất động. Chánh định trong Bát chánh đạo là loại định được nâng đỡ bởi Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng) và phát triển cùng với Chánh tinh tấn và Chánh niệm. Chánh định là tâm hoàn toàn yên lặng nhưng tỉnh thức chứ không phải là định trống rỗng không biết gì.
Bát chánh đạo là tám yếu tố giúp hành giả thanh lọc thân-khẩu-ý đưa đến trí tuệ sáng suốt và giải thoát thật sự.
Tóm lại, bốn chân lý cốt lõi của Tứ thánh đế giúp người tu tập nhận thức rõ về cuộc đời không ai là không khổ, tìm ra nguyên nhân khổ đau và thực hành theo con đường Bát chánh đạo đưa đến giải thoát giác ngộ...
III. QUÁN “TỨ THÁNH ĐẾ” TRONG KINH “TỨ NIỆM XỨ”
“Tứ thánh đế” là đề mục quán pháp cuối cùng trong kinh Tứ Niệm Xứ. Ý nghĩa về “quán pháp trên các pháp đối với Bốn thánh đế”, nguyên văn kinh dạy như sau:
“... Này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: “Đây là Khổ”; như thật tuệ tri: “Đây là Khổ tập”; như thật tuệ tri: “Đây là Khổ diệt”; như thật tuệ tri: “Đây là Con đường đưa đến Khổ diệt”. (ngưng trích)
Đoạn kinh này dạy khi tâm hành giả phiền muộn, bức bối khó chịu... thì ngay lúc đó hành giả tuệ tri như thật “Đây là Khổ”. Khi trong tâm khổ sở vì ham muốn điều gì đó mà không đạt được, hoặc cảm thấy buồn phiền vì xa vắng người thương. Hành giả biết ngay đây là nguyên nhân gây ra khổ. Kinh dạy hành giả như thật tuệ tri: “Đây là Khổ tập” nghĩa là ghi nhận có Khổ tập. Hoặc khi trong tâm hoàn toàn vắng lặng tham, sân, si... tức không còn phiền não, thì hành giả tuệ tri như thật “Đây là Khổ diệt”. Muốn đạt được Khổ diệt tức Diệt đế, hành giả tuệ tri như thật: “Đây là Con đường đưa đến Khổ diệt là Bát chánh đạo”. Bát chánh đạo gồm tám chi: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Đoạn kinh tiếp theo Đức Phật dạy:
“Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. “Có những pháp ở đây”, vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Đế...(ngưng trích).
Hành giả nào tu tập đúng theo lời Phật dạy, luôn giữ chánh niệm trên các nội pháp, ngoại pháp, nhận ra tánh sanh diệt trên các pháp, vị ấy không sống nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời, thì vị ấy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn thánh đế.
Đề tài “Quán Tứ thánh đế” là phần quán pháp cuối cùng của bài kinh Tứ Niệm Xứ. Như vậy chúng ta đã tạm thông qua các phần Quán Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Đi đến kết luận của bài kinh Niệm Xứ này, Đức Phật cho biết kết quả của việc tu tập Bốn Niệm Xứ nguyên văn như sau:
“Này các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo không cần gì đến bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất Hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một năm, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là chứng quả Bất hoàn.
Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.” (hết trích)
Tùy theo khả năng cũng như công phu tu tập Bốn Niệm Xứ. Dài nhất là bảy năm, ngắn nhất là bảy ngày, hành giả sẽ chứng được một trong hai quả: Một là Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là chứng Tam quả A-Na-Hàm tức Bất hoàn. Sau cùng Đức Phật còn xác quyết rằng con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ. Kinh ghi rằng sau khi nghe Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỷ-kheo vô cùng hoan hỷ tín sâu lời dạy của Ngài.
IV. KẾT LUẬN
Sau khi học bài kinh “Tứ Niệm Xứ”. Có người đặt câu hỏi là tại sao Đức Phật dạy rất nhiều phương pháp mà lại xác quyết “Bốn Niệm Xứ” là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn? Trong phạm vi hiểu biết hạn hẹp, người viết có tư duy thô thiển xin phép chia sẻ như sau:
Muốn thoát khổ giác ngộ, Đức Phật dạy hành giả phải tu tập theo lộ trình Giới-Định-Tuệ. Con đường tu Tứ Niệm Xứ cũng bao gồm đầy đủ Giới-Định-Tuệ. Và đặc biệt là quán thẳng vào thân tâm của chính hành giả. Trong lúc quán như thế hành giả luôn an trú trong Chánh niệm. Chánh niệm là khả năng tỉnh thức ngay trong hiện tại bây giờ và ở đây. Cái biết này hoàn toàn trong sáng, tạm xem đó là cái biết của Tánh giác, là cái tự biết bẩm sinh, không có sự tham dự của vọng tâm tức không có tham, sân, si. Không có quá khứ tiếc nuối, không có ảo vọng tương lai, mà ngay trong hiện tại cũng không suy nghĩ lan man phóng dật. Như vậy quán niệm bốn xứ giúp cho tâm hành giả được thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh thì làm gì có ưu sầu khổ não!
Ngoài ra, khi quán pháp qua các đề mục Năm triền cái, Ngũ uẩn, Sáu nội-ngoại xứ, Thất giác chi, Bát chánh đạo, hành giả sẽ hiểu rõ bản chất của các pháp là “Vô thường, khổ, vô ngã”. Hiểu các pháp sinh ra do nhiều điều kiện mà thành , nên có sanh thì có diệt. Biết rằng đau khổ hay hạnh phúc là do mình “thừa tự nghiệp” của mình gây ra... Quán sát và nhận ra những chân lý như vậy, tạm xem là hành giả có “chánh trí” nên không còn “chấp ngã, chấp pháp”, không còn dính mắc với bất cứ những gì trên đời, mà chỉ chuyên tâm tu tập thể nhập Niết-bàn. Niết-bàn là trạng thái tỉnh thức sáng suốt của tâm, là trạng thái tâm yên lặng hoàn toàn, không tư duy, không ngôn ngữ, không phiền não, là trạng thái của đế thứ ba trong Tứ thánh đế là Diệt đế, là trạng thái Vô vi, Vô lậu. Chỉ người trải nghiệm “Chánh trí, Niết bàn” mới tự hiểu mà thôi. Còn chúng ta có cố gắng dùng từ ngữ giải thích như thế nào cũng không thể chính xác được.
Trước khi tạm ngưng bài viết chủ đề “Quán Tứ Thánh Đế trong kinh Tứ Niệm Xứ”, người viết kính chúc quý độc giả, thiền sinh hữu duyên tu tập sớm vượt khỏi sầu não, khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn ngay trong đời này. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
(Sinh hoạt online ngày 05/10/25 với đạo tràng Tánh Không Texas)

