HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: Thế nào là TƯỚNG BIẾT VÀ TÁNH BIẾT ?

16 Tháng Tám 202110:23 SA(Xem: 2861)

Thế nào là

TƯỚNG BIẾT VÀ TÁNH BIẾT ?

-----------------

Thích Nữ Hằng Như

 Su Co Hang Nhu

I. DẪN NHẬP

Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v…  Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người.

Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.

Trong nhà Phật, quan niệm  mỗi con người có tới hai thứ biết. Một thứ  là “biết có lời” là cái biết người ta thường xuyên xử dụng suy nghĩ hằng ngày. Đó là cái biết do học hỏi, do kinh nghiệm mà có. Những kinh nghiệm này được cất giữ trong ký ức, khi gặp cơ hội thì nó trồi lên tạo thành cái biết của quá khứ, định danh liền cho đối tượng. Cái biết trong hiện tại là cái biết của ý thức, khi đối diện với đối tượng trước mặt là nó biết phân biệt, so sánh đưa đến cảm thọ thích hay không thích, dẫn đến tưởng tượng những chuyện chưa xảy ra. Tất cả những cái biết này do bản ngã tức “cái Ta” làm chủ. Kinh Kim Cang gọi đó là cái biết của “tâm ba thời”. Tâm ba thời là tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Tóm lại, cái biết này không hoàn toàn chính xác vì nó lấy tin tức từ cái biết quá khứ để so sánh phân biệt rồi đưa đến suy luận viễn vong về đối tượng nên bị xem là cái biết của Vọng tâm, gọi là Tướng biết.

Một thứ biết khác là “biết không lời” ai cũng có. Đó là cái biết lặng lẽ, chân thật, đối tượng như thế nào biết như thế đó. Đây là cái biết của người tu tập, bước được vào dòng Thánh, là cái biết của Chân tâm, gọi là Tánh Giác.

 

II. TƯỚNG BIẾT

Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, tâm người nhìn như thế nào sẽ thấy cảnh vật như thế đó. Chẳng hạn như trong lúc tâm người đó đang chán nãn buồn rầu, nhìn cảnh giới bên ngoài thấy hoa Xuân nở rộ, gió Xuân mát mẻ, cảnh sắc hài hòa, người người vui vẻ, nhưng đối với người này thì lại thấy cảnh trời ảm đạm không vui. Như vậy cảnh vật bên ngoài bị thay đổi qua tâm trạng vui buồn của bản ngã, giống như cái nhìn của người đeo kính màu. Mang kính màu vàng thì thấy cảnh sắc màu vàng, đeo kính màu xanh thì nhìn thấy cảnh sắc chan hòa một màu xanh. Tâm trạng buồn thì thấy cảnh vui thành buồn. Tâm trạng vui thì dù cảnh buồn cũng cảm thấy vui. Cái thấy biết trôi theo tánh khí vui buồn của bản ngã nên bị xem là cái thấy biết ảo, giả dối, không trung thực.

Lại nữa, khi mắt nhìn thấy một sự vật cụ thể, thí dụ như bình hoa, thì cho thêm quan điểm cũng như sự hiểu biết của mình vào bình hoa đó. Chẳng hạn như cho rằng bình hoa này không đẹp, dáng vẻ thô kệch, đáng lẽ người chế tạo bình hoa phải làm như thế này, điều chỉnh như thế kia thì đẹp hơn v.v…  Như vậy cái thấy biết này, bị những tư tưởng hay kiến thức của người nhìn biến đổi sự vật thành ra cái khác không đúng với cái đang là của nó. Bản chất thực của nó không có tên gọi là bình hoa, cũng không đẹp không xấu, không nặng không nhẹ, nó là nó thôi! Ngược lại người nhìn, định danh cho nó một cái tên là bình hoa,  thắc mắc bình hoa nên là thế này, phải là thế kia, tưởng là thế nọ… thì tốt hơn!

Thấy biết các pháp qua xúc cảm buồn vui hay kiến thức sẵn có chỉ là cái thấy biết một cách tương đối. Bởi vì thực chất pháp tự nó là nó. Tên gọi hay hình dáng,  màu sắc, nặng nhẹ, đẹp xấu… là do người đời đặt cho. Những gì người đời đặt cho hay gán ghép vào cho hiện tượng vật chất, thì đó chỉ là quy ước do con người chế định. Đã là pháp chế định thì mỗi nơi mỗi quan niệm khác nhau. Cái nhìn, cái thấy biết này thay đổi tùy nơi, tùy vùng và tùy người. Người tu thiền định thì gọi cái thấy biết này, là cái thấy “biết có lời” tức biết qua học hỏi, suy nghĩ của người thế gian. Nó sẽ thay đổi theo thời gianhoàn cảnh, nên trong nhà Phật xếp nó là cái biết thuộc tục đế.

Khi sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thấy biết liền, gọi là: nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Cái thấy biết ngay tức khắc này là cái lóe sáng biết đầu tiên khi giác quan tiếp xúc đối tượng, là cái thấy biết của Tánh giác gọi là Tánh biết (giác tri). Nhưng Tánh biết nhanh chóng bị ý niệm, khái niệm, quan niệm, tư tưởng, kiến thức của bản ngã che lấp trở thành cái biết của thọ tưởng trong kinh gọi là Tưởng tri và cái biết của ý thức trong kinh gọi là Thức tri. Cả Tưởng Tri và Thức Tri gọi chung là Tướng Biết

III. TÁNH BIẾT

Người có tu tập khi tiếp xúc đối tượng, họ nhìn thẳng vào cái đang là của đối tượng, chứ không soi mói tưởng tượng, định danh, đo lường gì về đối tượng đó cả. Cái thấy biết này không có ý căn, ý thức hay trí năng xen vào cho nên không có tên gọi, không có so sánh, phân biệt, khen chê, thương ghét, không áp đặt một ý niệm,  một khái niệm hay tưởng tượng gì lên đối tượng đó. Có đối tượng là sự vật cụ thể trước giác quan hay không có đối tượng trước giác quan thì Tánh biết vẫn biết.    

Tánh biết (bodhi) là cái biết lặng lẽ, tức khắc không qua suy nghĩ, là cái biết bẩm sinh, không lời. Khi buông bản ngã xuống, nghĩa là khi Tưởng tri và Thức tri yên lặng, tâm định tĩnh không còn dao động, thì ngay khi đó Tánh biết xuất hiện.    

Lưu ý, Tánh biết là cái biết trong sáng khách quan, khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, chứ không phải là giác ngộ. Nhưng Tánh biết chính là nền tảng của trí tuệ, đưa tới giác ngộ. Trong kinh thường mô tả hành giả tu tập đúng pháp sẽ chuyển Thức thành Trí (nãna), tức chuyển cái biết của tâm phàm phu sang cái biết của tâm bậc thánh.  Trí hay tri có nhiều cấp bậc như Tưởng tri, Thức tri, Thắng tri, Tuệ triLiễu tri. Liễu tri là sự thấy biết của chư Phật và các vị đã giác ngộ.

Tìm hiểu thêm về Tánh biết, chúng ta cùng đọc lại đoạn kinh ngắn, đức Phật giảng cho ông Bàhiya trong bài “Kinh Bàhiya” do cố Hòa Thượng Minh Châu chuyển dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt. Chúng ta chú ý đến chỗ thấy biết của các Tánh thấy, nghe, xúc chạm và nhận thức như sau: “Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri”. Như vậy, này Bàhiya, ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiya, ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau. Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bàhiya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ”. (hết trích)

Trong lời kinh này, chúng ta thấy đức Phật dạy ông Bàhiya bài học liên hệ đến “Tánh biết” qua mắt thấy, tai nghe, thân xúc chạm và nhận thức (thức tri). Khi mắt thấy đối tượng, biết ngay tức khắc, mà trong đầu hoàn toàn im lặng, không có cái “Ta” nhảy ra phân biệt so sánh. Khi nghe âm thanh, chỉ biết nghe, không suy luận về nội dung âm thanh nghe. Khi xúc chạm (thọ, tưởng) chỉ có tánh xúc chạm không có diễn dịch gì trong đó. Trong cái thức tri sẽ chỉ là cái thức tri. Nghĩa là khi nhận thức điều gì về đối tượng, giữ nguyên trạng thái nhận thức không thêm bớt gì vào nội dung của nhận thức đó.

Sau cùng, Phật dạy nếu ông Bàhiya thành tựu được bốn trạng thái này thì ông không là chỗ ấy, ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa.  Tại sao thế? Đó là nếu ông Bàhiya hành trì đúng lời dạy của đức Phật thì ông được giải thoát. Đã giải thoát rồi thì không còn hiện hữuđời nào nữa!

 IV. LÀM THẾ NÀO ĐỂ “TÁNH BIẾT” HIỂN LỘ?

Có nhiều cách tu tập để Tánh biết hay Tánh giác hiển lộ. Ở đây chúng tôi chỉ nêu lên một vài pháp mà thiền sinh thường được hướng dẫn tu tập như sau:

1) Hộ trì các căn: Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, không nắm giữ tướng chung, tướng riêng của sáu trần, giữ cái “biết không lời”, kéo dài cái lóe sáng biết đầu tiên. Biết không lời là biết mà không thầm thì trong não, tức không để tư duy của quá khứ, phân biệt của hiện tại, suy luận về tương lai… áp đặt lên đối tượng.  Biết không lời là cái biết của Chân tâm, như trong bài kinhNhất Dạ Hiền Giả : Quá khứ không truy tìm. Tương lai không ước vọng.  Quá khứ đã đoạn tận. Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại. Tuệ quán chính ở đây. Không động không rung chuyển. Biết vậy nên tu tập….”(hết trích).  

Thấy biết tức khắc đối tượng, trong tâm hoàn toàn yên lặng, không dao động. Trong lộ trình hành trì tu tập thì giai đoạn tâm dừng niệm này gọi là trạng thái Chỉ (Samatha), là trạng thái biết không lời. Cái biết này chính là Tánh biết. Nếu tâm yên lặng vững chắc thì đạt Định (Samãdhi). Trạng thái Samãdhi là chỗ mà trong kinh Nhất Dạ Hiền Giả mô tả trạng thái tâm không động không rung chuyển.

2) Pháp không dán nhãn, hay định danh đối tượng: Pháp này cũng là pháp nhằm thu thúc lục căn, không để tâm quá khứ hay hiện tại xen vào cái thấy biết trong sáng. Khi giác quan tiếp xúc đối tượng đã từng biết, hay đã từng nghe nói qua, ngay khi đó “tưởng”tự động gợi lên hình ảnh đã biết. Theo thói quen tâm nhanh chóng bị dính mắc với đối tượng. Gặp trường hợp này, hành giả áp dụng ngay phương pháp Phật dạy trong bài kinhSong tầm”, dừng ngay không gọi tên đối tượng, cũng không gán cho đối tượng là người như thế này thế kia, vì đó là hình thức dán nhãn đối tượng sẽ khiến hằng loạt những ý tưởng xấu hay tốt sinh khởi tạo thành “ý nghiệp”. Dừng niệm bằng cách nói thầm nhừa nhựa kéo dài hai từ “Không.. nói ….. Không nói….”. (*) Từ “không nói” này giống như mệnh lệnh, nó ra lệnh bộ não tắt ngay sự suy nghĩ.

So với bài kinh Song Tầm thì mệnh lệnh “không nói” được xem như là “tầm thiện” ngăn chận “tầm bất thiện” là những suy nghĩ lung tung về đối tượng.  Khi buông từ “không nói” , an trú ngay trong “trạng thái không nói”, lúc đó Tánh biết tự khắc xuất hiện.

Giải thích thì dong dài nhưng tiến trình tâm diễn biến trong sát-na thời gian, như vừa thấy đối tượng thì trong tâm đã khởi lên ý thích hay không thích liền.

3)  Chánh niệm tỉnh giác: Có hai cấp bậc:

-- Lúc đầuchánh niệm cảnh giác: Cảnh giác tức còn canh chừng cái biết, mà cái gì canh chừng? Khi giác quan tiếp xúc đối tượng, Trí năng luôn nhớ (niệm) canh chừng (cảnh giác) không để cho cái biết dính với trần cảnh.  Vì có  “ngã” canh chừng nên cái biết này vẫn còn là cái “biết có lời”. Từ từ chuyển cái “biết có lời” sang “biết không lời”, đi đến chánh niệm tỉnh giác.

 -- Chánh niệm tỉnh giác: Là cái tự biết không lời về đối tượng ngay trong “thực tại” tức “bây giờ và ở đây”. Đó là cái biết “đang là” không nội dung trên thân, thọ, tâm, pháp của chính mình. Biết không nội dung là biết mà trong tâm không diễn đạt gì cả, tức tâm hoàn toàn không dao động. Đó chính là Tánh biết.

4) Thực tập pháp Như Thật (Yathà bhùta): Bước đầu khi giác quan tiếp xúc đối tượng. Đối tượng như thế nào, thầm lặng thấy biết y như thế đó, tức thấy biết cái “đang là” của đối tượng, tâm hoàn toàn yên lặng. Ngay lúc đó, Tánh biết liền xuất hiện.

 

V. TẠM KẾT

Trên đường tu tập tâm linh đi đến giải thoát giác ngộ, Tánh biết chính là nền tảng cần phải có. Nói như thế không phải xem thường Tướng biết. Tướng biết rất cần thiết cho sự sống của con người. Nhờ có nó mà con người phát minh ra được nhiều thứ nâng cao đời sống vật chất của nhân loại. Cái biết này phải học hỏi, kinh nghiệm mới có, nhưng nó hữu hạn vô thường lại gây nhiều lo âu, phiền não cho con người.

 Trái lại Tánh biết là cái biết bẩm sinh ai cũng có nên nó vô thường vô hạn. Nếu chọn con đường tu tập hướng về tâm linh thì hành giả cần buông bỏ rất nhiều thứ thuộc về Tướng biết như cái biết của tâm quá khứ, hiện tại, tương lai, buông bỏ các tâm sở thuộc “hành” như tham, sân, si, kiết sử, tùy miên v.v….

Về vấn đề tu tập, Tánh biết cũng có nhiều cấp bậc. Từ cái biết không lời, đến Thầm nhận biết, Tỉnh thức biết, Nhận thức biết. An trú được trong trạng thái Nhận thức biết không lời, tức Nhận thức trống rỗng, hành giả an trú trong “định bất động” là tầng định thứ tư trong Thiền Phật giáo. Trong trạng thái tâm thuần tịnh, nhu nhuyến, định tĩnh, ngoài lý luận, dễ sai khiến này, tiềm năng giác ngộ kiến giải những điều mà hành giả muốn biết, không qua suy nghĩ, suy luận…  gọi là trí huệ tâm linh (Bát nhã), như trường hợp đức Phật chứng ngộ ba minh, biết rõ nhiều đời trong quá khứ của mình, nhận ra nhân quả nghiệp báo của chúng sanh và biết rõ lậu hoặcnguyên nhân của khổ đau, luân hồi sanh tử. Muốn thành tựu trí này, Tánh biết đóng vai trò quan trọng vì nó chính là nền tảng đưa đến giác ngộ. Thường xuyên thực tập sống trong Tánh biết hay Chánh niệm, xem như chúng ta đang làm sống lại Chân Tâm của mình vậy!

       THÍCH N HẰNG NHƯ

          Thiền thất Chân Tâm

           (August 13, 2021)

(*) Pháp Không Nói” do cố HT Thích Thông Triệt truyền dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1304)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1183)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1153)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1985)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1459)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1411)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1871)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1900)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 2124)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
26 Tháng Tám 20232:36 CH(Xem: 2038)
Tuệ ở đây mình muốn nói tới Vipassanā, Tuệ Minh sát. Trong giới hạn bài này, mình bàn tới bài Kinh Niệm Xứ, trong kinh Nikāya. Mặc dù thông thường người ta vẫn nói “Quán Tứ niệm xứ”, trong bài kinh cũng nói “Quán thân” (Kāya-anupassanā) v.v…nhưng hiện nay các vị tôn đức xếp bài kinh Niệm xứ là Vipassanā, là thuộc Tuệ. Cho nên trong bài này, mình cũng tạm nói là Tuệ, tức là dùng tuệ thực hành...
20 Tháng Tám 202310:54 SA(Xem: 2393)
Nói tới Quán, có vài loại Quán hơi khác nhau, trong bài này chỉ xin nói tới loại Anupassanā, nghĩa thông thường là nhìn ngắm hiện tượng thế gian liên tục để nhận ra bản thể hay đặc điểm của hiện tượng thế gian là: vô thường, khổ, vô ngã. Vậy mình cũng có thể hiểu Quán là quan sát hiện tượng thế gian bằng con mắt trí tuệ.
14 Tháng Tám 202311:20 SA(Xem: 1836)
Muốn đạt được kết quả tốt, người thực hành phải hội đủ 5 tiêu chuẩn cần thiết: Tự lực, Nhu cầu, Quyết tâm, Lý thuyết, và Lý luận. Đây là 5 tiêu chuẩn lập thành hệ thống lý luận thực tiễn trong việc thực hành Thiền Phật giáo. Muốn điều chỉnh thân, cải tạo tâm, cân bằng thân-tâm, và phát huy trí tuệ tâm linh có hiệu quả, 5 tiêu chuẩn nói trên không thể tách rời nhau được.
09 Tháng Tám 202312:40 CH(Xem: 2115)
Cốt lõi là cái tinh túy, cái tinh ba. Chớ không phải cái bề ngoài. Nếu so với cái cây, nó không phải là lá cây, cành cây.v.v. mà là cái lõi bên trong của cây. Cái cốt lõi đó phải ngắn gọn, mới gọi là cốt lõi. Mà trong đạo Phật có nhiều cốt lõi lắm. Tại sao vậy?
02 Tháng Tám 20238:44 CH(Xem: 2091)
Chư Tổ Phát Triển thường nói có tới 84 ngàn pháp môn tu, tức là có vô số cổng để bước vào ngôi nhà giác ngộ, hay ngôi nhà giải thoát. Hôm nay chúng ta thử khảo sát cánh cổng của Giới.
31 Tháng Bảy 202310:00 SA(Xem: 1545)
“Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau.
17 Tháng Bảy 20231:44 CH(Xem: 1431)
Dès la clôture de la retraite bouddhique à Berlin, notre groupe de bhikkhunis - Nhu Minh, Nhu Sen et moi-même - a pris le lendemain, 19 mai, l'avion pour Paris. Le 20 mai au matin, la retraite de courte durée y a commencé, durant 3 jours, samedi, dimanche et lundi. Ce stage est également bilingue français-vietnamien avec la présence de quelques francophones qui écoutaient en direct l’enseignement à l’aide des écouteurs personnels. Ainsi la traduction ne gênait personne, et le cours se déroulait normalement comme d'habitude.
12 Tháng Bảy 20234:15 CH(Xem: 1943)
KINH VĂN : Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. bao gồm bản Hán Việt, bản dịch nghĩa, bản Anh ngữ & Pháp ngữ
05 Tháng Bảy 20239:06 SA(Xem: 1110)
Như vậy con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
13 Tháng Sáu 20237:59 CH(Xem: 1609)
Hòa Lan, thành phố đông người trần tục hay vườn hoa thiên nhiên với con người an vui thanh thản?
11 Tháng Sáu 20234:39 CH(Xem: 1363)
Le 4 mai commençait la retraite dans un centre de la ville de Moissac. Cet endroit, situé sur une haute colline tranquille ayant abrité déjà plusieurs retraites bouddhiques, était un ancien couvent carmélite, aujourd’hui transformé comme lieu de villégiature pour touristes. La Sangha de Toulouse a toujours été composée davantage de pratiquants français que vietnamiens, d’où la nécessité d’organiser la retraite en bilingue. Tout le monde doit rester sur place, car c'est loin de Toulouse.
05 Tháng Sáu 20236:34 CH(Xem: 1658)
Trường Bộ Kinh Digha Nikaya 16. Kinh ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN (Mahàparinibbàna sutta)
30 Tháng Năm 20234:42 CH(Xem: 1158)
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
29 Tháng Năm 20233:10 CH(Xem: 1234)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1308)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1623)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1202)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
69,256