HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Bài Trình Thứ Nhất: Một Quãng Ngắn Đời

10 Tháng Giêng 20222:04 CH(Xem: 1450)

Một Quãng Ngắn Đời

Ngày 7 tháng 10 năm 1998

Kính thưa Thầy,
Bây giờ là 11 giờ đêm 7 tháng 10 năm 1998; sau một giấc ngủ ngon hai tiếng—vì mấy ngày nay con bịnh cảm cúm, nằm li bì trên giường, đầu nặng trĩu—con thức dậy, thấy khỏe một chút, định ngồi Thiền giấc khuya như mọi khi, nhưng chợt con có ý định bắt đầu viết một bài trình Thầy về tất cả những gì con thực sự đã trải qua từ khi tu học dưới sự hướng dẫn của Thầy. Mặc dầu thỉnh thoảng con cũng có trình Thầy vài sự kiện mới, hay vài cảm nhận mới mà con đã nhận ra được; tuy nhiên, vào thời điểm đó con chưa trình rõ ràng, mạch lạc, và chi tiết. Hôm nay con viết lại chi tiết từng sự kiện đã xảy ra trong nhận thức của con:
• tâm con như thế nào,
trí huệ của con ra sao,
• làm sao con có những bước tiến đó và làm thế nào duy trì những bước tiến được đến ngày nay.
Có thể con kể theo thứ tự thời gian, một cách tương đối; con không thể sắp xếp theo một dàn ý rõ ràng được, như mấy bài trình cuối khóa học của con. Bài trình này sẽ chỉ giống như một dòng sông tuôn chảy; con chỉ có thể ngắt ra một đoạn, là bắt đầu từ khi con được gặp Thầy lần thứ nhất, tức là năm 1994, đến nay là 1998.

Kính thưa Thầy,
Sự kiện con được gặp Thầy năm 1994, con đã có viết rồi, trong bài trình cuối khóa II Căn bản năm 1996, và Thầy có in trong quyển II ĐỒ THỊ DẪN GIẢI THIỀN bài trình đó; tuy nhiên, hôm nay, con xin kể lại chi tiết hơn; vì hôm nay con nhận định rằng bước thứ nhất đó rất quan trọng trong đời tu của con, mà mãi sau này nó vẫn còn ảnh hưởng đến trí huệ của con. Lần đó con chưa hạ thủ công phu, mà ngẫu nhiênhoàn cảnh, con lại rơi đúng vào quĩ đạo của tiến trình ngộ. Từ ấy, trí huệ bắt đầu phát triển lần lần. Con xin kể lại.
Vào một buổi chiều, tháng 7 năm 1994, cách đây đúng bốn năm, nhưng các sự kiện này vẫn còn ghi đậm nét trong ký ức của con. Hôm đó, một đạo hữu điện thoại cho con hay là chị đã mời được một vị đệ tử của Hòa Thượng Thanh Từ,< em hãy đến ngay để nghe thầy giảng và tham vấn…>
Đó là lần đầu tiên, con được gặp mặt và biết về Thầy. Buổi nói chuyện giữa Thầy và các đạo hữu đã bắt đầu từ lúc nào rồi; khi con đến, Thầy đang vui vẻ kể lại những bước gian khổ trên con đường tu tập ngày xưa, cho chúng con nghe.
Lúc Thầy vừa kết thúc câu chuyện, trời đã bắt đầu tối, con lấy can đảm cố gắng thưa hỏi một câu:
- Thưa Thầy, con thường nghe nói: “Tức Tâm tức Phật,” và “Kiến Tánh thành Phật.” Vậy thật sự Tâm và Tánh có hoàn toàn giống nhau không ?
Thầy cười, trả lời liền:
- Khác nhau à nha !
Thầy đứng lên, sắp từ giả để đi. Con lật đật bước lên, thưa thêm một câu nữa:
- Thưa Thầy, mình tu đến khi “tâm lặng lẽ” là xong chưa?
Thầy lại cười cười, trả lời:
- Chưa xong à nha !
Hai câu trả lời ngắn gọn này làm cho con hoang mang, không hiểu ý nghĩa bên trong đó như thế nào. Nhưng Thầy đã bước ra cửa, đi rồi ! Làm sao thưa hỏi tiếp đây ?
Kính thưa Thầy,
Bây giờ con mới hiểu, chính hai câu trả lời của Thầy, đối với con lúc ấy, đã trở thành hai “công án,” mà con nghiền ngẫm bao nhiêu ngày đêm không ra. Hai “công án” mới này thêm vào “kho công án” cũ mà con đã tích lũy từ bao lâu nay, thật đã quá đầy ! Từ mấy năm, khi bắt đầu ăn chay trường (1989), con đọc rất nhiều kinh điển Phát Triển, nhưng vì không thưa hỏi với một thiện tri thức nào, nên con không hiểu mấy về nội dung kinh. Tất cả những từ, những câu, những đoạn, những ý, những hình ảnh nào con không hiểu được bằng trí năng, thì con gạt qua một bên, và nói thầm: “Thế nào cũng có ngày mình hiểu tới những Công án đó !”
Lúc ấy con gạt qua một bên, nhưng bây giờ con biết là tất cả những nghi vấn đó đã đi vào kho ký ức dài hạn của con.
Cảnh gia đình con khi đó lại lâm vào tình trạng bi đát. Cột trụ của gia đình thì đau yếu trầm kha, càng ngày càng nhiều. Con thì ốm yếu nhỏ nhoi, lại gánh vác hết mọi việc gia đình: cơm nước, tiền bạc; từ việc nặng nhọc trong nhà, cho đến giao tiếp bà con cô bác hai bên, lo nuôi nấng dạy dỗ các con; con không có tài năng gì, kiếm từng đồng, thức khuya dậy sớm.... Lúc ấy, nhờ đọc kinh sách, nghiền ngẫm nghĩa lý trong kinh, mà con có thêm nghị lực để phấn đấu với chính mình, với nỗi buồn phiền của mình. Có lúc quá mỏi mệt, con xin cho con được ngủ một giấc an lành, sáng mai không thức dậy nữa. Do ước muốn này mà mỗi ngày con sống trọn vẹn cho ngày ấy: làm việc đời, việc nhà, những điều cần nói phải nói, mỗi ngày dành một ít thì giờ cho riêng mình để tu tập. Bấy giờ việc tu tập của con chỉ đơn giản là xem kinh Phát Triển, nghiền ngẫm để hiểu và ứng dụng cho đời sống của mình. Mỗi tối, trước khi đi ngủ, dù là một hay hai giờ sáng, con vẫn dành chút ít thì giờ để đọc kinh Phật, hay luận của Tổ, cho đến khi buồn ngủ quá, mới xếp sách lại. Từ khi con có thói quen này, thì đêm ngủ, không còn ác mộng nữa.
Lúc ấy, con say mê kinh Hoa Nghiêm; con đọc mà không hiểu thấu, chỉ cảm nhận sức lôi cuốn của kinh này.
Ngay sau khi gặp Thầy, lần đầu, con có một cảm nghĩ rằng, theo gót chân Thầy, có một ngày nào đó, con sẽ thấy được cảnh giới Hoa Nghiêm.
Tuy nhiên, hiện tại, gánh đời thì nặng trĩu, buồn phiền; con đường đạo thì lại mịt mù, bít lối. Con ở trong cảnh cùng đường. Con có tâm sự với một người bạn tu rằng: con đi ngõ nào cũng có một bức tường chắn ngang trước mặt, không có lối thoát.
Và trong lòng con, mong mỏi ngày Thầy trở lại Cali, để nghe Thầy giảng rõ ý nghĩa hai câu trả lời vắn tắt ấy.
Năm 1995, Thầy trở lại Cali, để lo việc in sách Đồ Thị Dẫn Giải Thiền của Thầy. Đồng thời, Thầy có giảng Thiền tại nhà một đạo hữu ba ngày: thứ sáu, thứ bảy, và chủ nhật.
Thầy giảng thật rõ ràng, dễ hiểu, mà lại còn vẽ sơ đồ để giải thích vai trò các định khu não bộ, và những tác động dây chuyền giữa tâm, pháp, não bộ qua những kỹ thuật thực hành mang lại lợi ích thiết thực cho thân, tâm, và cho trí tuệ. Nội dung bài giảng thật quá mới lạ đối với mớ hiểu biết ít ỏi của con. Thầy đem Thiền học Phật giáo phương Đông đối chiếu với khoa học hiện đại của Tây phương. Con tiếp thu những bài pháp ấy thật nhanh.
Đến ngày chủ nhật, khi Thầy giảng đến ví dụ cái bông hoa này, khi ta nhìn nó, đâu phải chính cái bông hoa đi vào mắt ta, đi vào tâm ta, mà chỉ là NHỮNG XUNG LỰC ĐIỆN TỬ truyền vào các cơ chế từ mắt đến bên trong não, rồi đến cơ chế Tánh thấy của Tánh Giác...
Nghe đến đây, con giật mình. À thì ra, “cái thất của Ngài Duy Ma Cật” đây rồi ! Tại sao cái thất nhỏ mà chứa hết mười phương thế giới cũng không chật, không đầy ?
Đêm ấy, trong lòng vui mừng, thảnh thơi, con nằm im, chờ đợi giấc ngủ đến, nhắm mắt, không suy nghĩ. Bỗng nhiên, con thấy như có một màn ảnh nhỏ trước mắt: một vấn đề hiện ra, ngay sau đó là câu giải đáp vấn đề thật nhanh; lại một vấn đề khác, và rồi một câu trả lời thích hợp; cứ tuần tự, có khi nhanh, có khi chậm. Rất nhiều câu, nhiều vấn đề, mà bây giờ con không còn nhớ hết. Con chỉ có thể nhớ vài điều như: Tại sao không có thời gian ? Tại sao không có không gian ? Cảnh giới Hoa Nghiêm ra sao? Thế nào là ảnh hiện chập chùng ? Hoa Tạng thế giới ra sao ? Khi Phật phóng hào quang, tại sao toàn thân Phật, các lỗ chân lông cũng mĩm cười ?...
Những hình ảnh mà con trông thấy lúc đó thật rõ ràng, như là con có thể vẽ lại trên bảng được; nhưng con biết rằng nếu con cố gắng vẽ lại, thì nó sẽ rất buồn cười, vì nó không diễn tả được hết những sự kiện con đã thấy, đã hiểu. Cũng như khi con cố gắng kể lại trình Thầy nghe, con biết Thầy hiểu; nhưng các đạo hữu khác chắc không thể mường tượng được cái gì con đã thấy, đã biết, qua những lời lẽ lắp bắp, vụng vềgiới hạn của con lúc bấy giờ.
Lúc đó, thật con chưa biết sự kiện đang xảy ra là gì. Con chỉ cảm nhận có một điều gì mới lạ, mơ hồ, huyền bí, đơn giản tự nhiên, và thật là sáng suốt đang lóe ra, làm cho con tức khắc hiểu và thấy được hết những điều bế tắc bấy lâu nay.
Sự việc này bắt đầu từ 12 giờ đêm cho đến 4 giờ sáng. Con nhìn đồng hồ, thấy đã 4 giờ sáng, con tự nói: “Đã khuya quá rồi, phải ngủ.” Thế rồi con ngủ tới sáng.
Thức giấc, con đi tới đi lui, làm việc trong nhà như thường lệ; con để ý đến nội tâm, thì nhận ra rằng, đang còn có vấn đề nêu lên, và từ từ lại có câu giải đáp. Nhưng bây giờ nhịp điệu chậm đi nhiều, so với đêm trước.
Khoảng xế chiều, con trở lại gặp Thầy và các đạo hữu, thì sự việc hoàn toàn chấm dứt.
Con có trình Thầy nghe, nhưng lúc đó con chỉ kể sơ lược. Thầy cho biết rằng đó là tiềm năng kiến giải của Tánh gíác...
Lúc ấy, có một nỗi vui mừng trong lòng mà con không thể nói ra được với ai, vì dù có kể lại toàn thể câu chuyện, chắc cũng không ai hiểu là con muốn nói điều gì. Nỗi vui mừng không bày tỏ ra được, nên nó cứ âm ỷ trong lòng, chắc kéo dài cũng mấy tuần lễ sau đó.
Đây là lần đầu, con biết được, chính trong con, có một tiềm năng sáng suốt. Tiềm năng này đã tình cờ bật ra những kiến giải mới lạ, trong một quãng thời gian dài. Lúc đó, con nghĩ sự việc này là một tình cờ. Nhưng bây giờ con biết con đã tình cờ đi đúng con đường Thiền, nên mới bật ra được những lời kiến giải từ cơ chế Tánh Giác.
Thầy đã nhiều lần giảng về tiến trình ngộ trong Thiền trong các khóa học sau này; chớ lúc đó, Thầy chưa giảng. Hơn nữa, vì lớp học chỉ có ba ngày, nên Thầy chỉ xoáy trọng tâm vào việc thực hành Pháp Thiền Biết Vọng Không Theo của Sư Ông mà thôi.
Con ráp lại những điều con đã học sau này vào thời điểm đó về ngộ, con nhận thấy rất thích hợp. Con xin trình lại như sau:
• Giai đoạn I: Phải có một nghi vấn, hay nhiều nghi vấn mà ta không thể giải quyết được bằng trí năng hay bằng suy nghĩ. Điều kiện này cũng giống như cách áp dụng theo lối thực hành Công ánThoại đầu, hoặc dụng công theo Thiền tông.
• Giai đoạn II: Cuối cùng trí năng bị bế tắc, hay là ý thứcý căn không hoạt động được nữa. Đây cũng là mục tiêu của Thiền mà ngày xưa chư Tổ đã dạy đệ tử những cách thực tập dừng suy nghĩ, hay tắt ngôn hành, hoặc dứt tầm tứ.
• Giai đoạn III: Ngay trong tiến trình trí năng bế tắc này, phải có một nhân duyên bên ngoài tác động vào một trong bốn cơ chế của Tánh Giác: tánh thấy, tánh nghe, tánh xúc chạm và tánh nhận thức biết.
• Giai đoạn IV: Lập tức từ bên trong cơ chế Tánh Giác liền bật ra lời kiến giải rõ ràng, và chính xác về nghi vấn mà từ lâu ta đã bế tắc.
• Giai đoạn V: Kết quả là: lúc ấy tâm ta bị xúc động mạnh: vui mừng, hay khóc vì cảm động. Sau đó đưa đến:
Chuyển hóa nội tâm.
Chuyển đổi nhận thức.
Trí huệ phát triển dần dần.

Con xét lại quá trình Tánh Giác của con bật ra và kiến giải có phần khác hơn đôi chút. Con xin trình như sau:
• Giai đoạn I: Kho ký ức dài hạn của con đã chất chứa đầy ắp nghi vấn trong suốt năm năm—trước khi con gặp Thầy—cộng thêm hai câu trả lời quá ngắn của Thầy, làm cho con cảm thấy mịt mù, bí lối.
• Giai đoạn II: Đêm Chủ nhật đó, khi con nằm im, chờ đợi giấc ngủ đến, trong đầu không suy nghĩ, trí năng hoàn toàn yên lặng, thân tâm hoàn toàn thư giãn. Lúc bấy giờ, tình cờ con đã rơi vào chỗ vô niệm của Thiền. Đó là con có cái biết rõ ràng mà không nội dung cố định.
• Giai đoạn III: Về sự kiện nhân duyên bên ngoài tác động vào tánh giác của con, con xin mô tả như sau:
Hồi sáng này, khi nghe Thầy giảng: “Bông hoa này, khi ta nhìn nó, đâu phải chính nó đi vào mắt ta, đi vào tâm ta; mà chính là những xung lực điện tử đã truyền vào mắt ta, truyền vào tánh thấy...” Lúc đó, con nhận ra được “Cái thất của ngài Duy Ma Cật.” Con nghĩ rằng, trường hợp con đêm ấy, không phải do bị kích thích một trong ba cơ chế: thấy, nghe, xúc chạm của tánh giác, mà là do trí năng suy nghĩ ngưng hoạt độngtình cờ con rơi vào chỗ thư giãn tâm, nên cơ chế tánh nhận thức biết có mặt... Con nhớ có lần Thầy giảng trong Tăng Chi bộ kinh về bốn tiến trình ngộ : Phật nói ngộ do bốn cách: do mắt thấy đối tượng (qua niệm Như thật), do niệm biết (qua tai nghe mà không suy luận; chỉ lắng nghe), do thân (qua sự xúc chạm bằng niệm chỉ biết; trong đầu không suy nghĩ), và do tuệ (qua nhận thức biết). Như con, suốt ba ngày nghe Thầy giảng pháp, con chỉ chú ý lắng nghe, và hiểu được tất cả; nhờ đó mới giải ra được những chỗ bế tắc từ lâu chất chứa trong tâm con.
• Giai đoạn IV: Khi con tình cờ rơi vào chỗ vô niệm, vùng Kiến Giải Tổng Quát lập tức bật ra tuần tự những lời kiến giải của nó. Những lời kiến giải này tuôn ra dễ dàng, tự nhiên, con không cần cố gắng, không cần suy nghĩ. Khi cái “Kho chất chứa nghi vấn” cạn, thì tánh giác ngừng kiến giải.
Do đó, con hiểu rõ rằng, nếu khôngnghi vấn, thì tánh giác dù có mặt, cũng không bật ra lời kiến giải nào, vì đâu có dữ kiện gì để kiến giải ! Vì vậy, con hiểu những trường hợp Định sâu mà trí huệ chưa phát sáng, là vì trong ký ức dài hạn không có nghi vấn cần giải quyết, nên tánh giác dù có mặt, vẫn không bật ra kiến giải mới lạ, sáng suốt. Nên trí huệ khó phát triển.
Đây là con nói về bước đầu của người sơ cơ, tức là khi tánh giác chưa từng bật ra lần nào; hay nói cách khác, khi chưa có kinh nghiệm về ngộ, dù là một cái ngộ nho nhỏ, thì cần phảinghi vấn, nghi tình, mới kích thích được tiềm năng sáng suốt bật ra. Còn trong những bước tu kế tiếp, khi tánh giác đã “mở hé cánh cửa” của nó rồi, thì có khi không cần nghi vấn hay nghi tình, tánh giác vẫn cứ tuôn ra những lời kiến giải mới lạ, chính xác, khi ta đóng cánh cửa của trí năng hay ý căn, hoặc ý thức.
• Giai đoạn V: Con cũng có cảm xúc vui mừng, vì nhận ra mình có kho báu sáng suốt riêng, mà từ lâu không biết. Còn kết quả về chuyển đổi nhận thức, chuyển hóa tâm, và phát triển trí huệ tâm linh là những sự kiện lâu dài; mãi sau này, đem so lại với chính mình trong thời điểm đó, con mới nhận ra mình có hiểu biết khá hơn trước nhiều.
Từ đấy, tánh giác, đối với con, không còn là một kho tàng ẩn giấu bí mật nữa. Nó là một kho châu báu vô tận của riêng con. Tất cả những gì của thế gian: tiền bạc, danh vọng, danh dự, uy tín...người đời có thể tranh giành hay cướp đoạt đi từ nơi con, nhưng kho báu sáng suốt này là của riêng con, không ai nhìn thấy, không ai lấy được. Kho báu này chất chứa đầy ắp trong một gian phòng trước mặt, con chỉ cần có chìa khóa đúng, là có thể tự ý mở ra mà xài.
Lúc ấy, con mới nhận ra là Thầy đã có chìa khóa đó từ lâu.
Trong ba ngày giảng pháp, Thầy dạy cách dụng công trong bước đầu “Không theo vọng tưởng” bằng ba kỹ thuật:
1) "Không nói thầm trong não,"
2) "Không định danh đối tượng," và
3) "Chú ý trống rỗng."
Sau khi Thầy về lại Tiểu bang Oregon, con bắt đầu thực tập Thiền ở nhà. Nhưng kết quả vô ích: mỗi khi con nhìn một vật gì là trong đầu con nói liền tên vật đó, con nhìn một hàng chữ là trong đầu đọc liền hàng chữ đó. Con buồn quá, nghĩ mình nghiệp chướng còn dày, nên con lễ Phật, đọc kinh, sám hối. Nhờ đó, con có thêm một kinh nghiệm mới.
Một hôm, sau khi để hết tâm ý đọc xong một thời kinh như thường lệ, tay mặt con thong thả cầm lấy cái dùi nhỏ, đánh một tiếng chuông. Nghe tiếng chuông ngân, bỗng nhiên con rơi vào chỗ tâm trống không, nhẹ hẫng, thênh thang. Sau đó, con mới nhận ra hồi nãy là tâm vô niệm.
Từ hôm đó, muốn bước vào chỗ vô niệm, con phải đánh chuông. Khi tiếng chuông dứt, con trở lại có niệm liền. Vì thế, con cố gắng dụng công để làm sao bước vào vô niệm mà không cần đánh chuông. Nhưng trong những lúc thực tập “Không định danh đối tượng,” con vẫn chưa chủ động được, tức là vẫn chưa dừng được “lời nói thầm trong não,” khi nhìn thấy một vật.
Mãi đến tháng 7 năm 1996, khi con lên Trung Tâm Thiền ở Oregon để dự lớp 2 khóa Căn bản II, con vẫn chưa chủ động dừng được niệm một chút nào. Trong đầu vẫn nói thầm triền miên.
Nhưng khi Thầy khai giảng lớp, con lại vui vẻ trình Thầy là con đã vào được "cửa Tổ số 1.” Con xin kể lại chi tiết những sự kiện nào đã xảy ra trong một tuần lễ quyết định đó.
Kính thưa Thầy,
Lúc ấy, một vị đạo hữu cho con biết Thầy có mở khóa II dạy ở Oregon; lớp 1 thì đã học xong ba tháng rồi, sắp tới đây là lớp 2, lớp tiếp theo. Vị ấy đã xin được phép của Thầy tham dự lớp 2, mặc dù chưa qua lớp 1. Vị ấy rủ con cùng đi học. Con mừng lắm, nhờ vị ấy xin Thầy cho con học lớp 2 sắp tới. Khi được Thầy chấp thuận rồi, vị ấy mua vé máy bay cho cả hai cùng đi. Khi lên đến nơi, các đạo hữu mới kể lại cho con nghe sự thật.
Lúc đầu, Thầy khăng khăng lắc đầu, không cho con học lớp 2, lý do con chưa qua lớp 1, Thầy sợ con không theo kịp lớp. Mãi sau, mọi người thỉnh cầu quá, Thầy mới bất đắc dĩ gật đầu. Con lại được biết thêm một sự thật nữa là: tất cả các vị lớp 1 đều đã có thể dừng được niệm, dù trong một thời gian ngắn, và đều có kinh nghiệm về những tác động sinh học xảy ra trên thân. Thầy gọi đó là cửa Tổ số 1, tức là cửa đầu tiên: Biết Vọng Không Theo hay Dừng Vọng Tưởng mà Sư Ông Thanh Từ chỉ dạy. Tất cả các vị sẽ học lớp 2 phải bước qua cửa Tổ này.
Con nghe hai sự thật này, trong lòng hỗ thẹn, buồn giận mình, gần một năm qua rồi, mà pháp “Không định danh đối tượng” vẫn chưa thực hành được kết quả. Thế rồi, cái bản ngã to lớn của con ra lệnh cho con: “Phải tắt niệm ! Phải tắt niệm !” Nếu không, Thầy đuổi về Cali thì còn mặt mũi nào nữa.
Con dụng công bất kể giờ giấc: sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng nhìn cảnh vật, cố gắng không nói thầm lời nào trong não. Mấy ngày sau, nhân một buổi đi thăm một tu viện nổi tiếng ở Portland, khi đi dạo chầm chậm trên con đường thiền hành thâm u, giữa cây cối râm mát, con bỗng nhận ra trên đỉnh đầu có sự xoay chuyển nhè nhẹ, nhè nhẹ, như chiều quay của kim đồng hồ, và trong đầu con, trống rỗng. Con dừng lại, mắt vẫn mở, nhưng không để ý tới cảnh trước mắt, con nhìn thấy tâm mình không có niệm, và cái lực xoay chuyển kia, càng lúc càng rõ. Bấy giờ, con biết là con đã thành công. Từ lúc đó, con cứ thực tập hoài cái kinh nghiệm này. Các bạn cùng đi chơi, cứ đứng xa xa nhìn con mà cười. Sau đó, các bạn mới nói với con: “Thấy mặt cô càng lúc càng khờ ra.”
Bấy giờ, gánh nặng trong lòng con đã được trút bỏ. Sau khi nhận ra được cách thức để dừng niệm, con đường Thiền mới thật sự mở ra thênh thang, thẳng tắp trước mặt con.
Trong ba tháng tu học ở Oregon, nội tâm con đã được chuyển hóa nhiều: từ mặc cảm tự ty bấy lâu, con đã lần lần tự tin hơn qua việc tiếp thu pháp học và pháp hành thật dễ dàng, mau chóng. Từ tâm phiền muộn về những bất hạnh trút xuống gia đình con hai cái đại tang cuối năm 1995, con dần dần hiểu được cảnh vô thường của thế gian; và con đã nhìn thấy dòng đời 50 năm của con đã qua rồi, như một giấc chiêm bao mà thôi. Giờ đây, con đã bước được bước thứ nhất trên một con đường mới, an vui hơn.
Trong ba tháng này, con lại có thêm một kinh nghiệm mới về “cái thấy như thật của Tánh Giác.”
Lúc ấy, có tất cả năm vị ở xa đến tu học, nên chúng con được nội trú tại Thiền viện. Ai cũng theo đúng nội quy, giữ năm điều hòa hợp, tu tậptiến bộ. Tuy nhiên có một vị thường hay bắt bẻ những điều nhỏ nhặt của các bạn, sửa đổi người khác phải làm đúng theo ý muốn của mình. Do đó, riêng con là người nhỏ tuổi nhất, dù con ráng giữ gìn cẩn thận, vẫn thỉnh thoảng bị bắt bẻ. Trong lòng con cảm thấy buồn bực, có lúc tủi thân, cũng chảy nước mắt thầm. Nhưng có một lần, con và vị đó nói chuyện với nhau, không biết nội dung gì con đã quên, trong lúc mặt đối mặt, nhìn nhau thật gần, miệng thì cười ha ha, chợt một tia sáng lóe ra trong đầu con: “Ô, chị ấy đâu có ghét mình !” Trong lòng con rúng động. Gánh nặng bực bội tan mất, trong lòng nhẹ nhàng thảnh thơi. Từ đó, con đối với vị ấy thật cởi mở, tự nhiên.
Và con biết rằng, tính nết, thói quen của người ta là vậy, không thể mới tu tậpsửa đổi ngay được.
Sau này, Thầy giảng kỹ về tập khí, con hiểu là con cũng đã nhìn người qua tập khí nghi kỵ của con, để rồi tự mình chuốc lấy bực bội phiền não. Có một lần, vị ấy nói với con: “Sao cô không khôn tí nào hết !” Lúc trước chắc là con sẽ buồn bực mấy ngày vì câu nói này. Bây giờ nghe nói vậy, con cất tiếng cười ha ha, vị ấy cũng cười theo, cuối cùng con mới hỏi: “Không biết em có “mát dây” hay không, nghe người ta nói mình không khôn tí nào, mà em thấy buồn cười quá. Còn chị có “mát dây” hay không, sao dám nói em không khôn tí nào ?” Thế rồi cả hai lại cười ha ha tiếp cho đến chảy nước mắt.
Mãi sau này, Thầy dạy pháp “Không dán nhãn đối tượng”, con so lại mới biết, lúc ấy, con lóe ra một cái “nhìn như thật”, “không dán nhãn đối tượng”, nên nó chuyển đổi tâm con thật nhanh, từ buồn bực nặng nề trở thành nhẹ nhàng, vui vẻ; mối liên hệ bạn tu trở thành thân ái.
Thời gian con tu học ở Oregon là quãng thời gian đáng ghi nhớ, vì đã từ lâu lắm rồi, con không còn biết cười thoải mái như vậy. Chính con cũng tự nhận thấy mình cằn cỗi, già nua trước tuổi. Từ trước 1975, con là một cô giáo trẻ, trẻ hơn tuổi. Nhưng từ 1975 đến 1996, hai mươi năm phong trần, nhất là thời gian sau này, một mình gồng gánh cả gia đình, có nhiều lúc con muốn gục ngã. Nhờ nhìn thấy con đường tu, con mới sống được đến ngày nay.
Con có làm mấy câu:

CẢM ĐỀ
Bao năm qua, mải miết cõi u buồn,
Nước mắt và thơ, nghe chừng đã cạn.
Bỗng giờ đây, thơ từ đâu lai láng ?
Chiến thắng mình, thôi lập tức vô ngôn.
Về việc dụng công, con được tiến bộ đều. Duy có một sự kiện buồn cười là: mỗi khi xả Thiền, Thầy luôn luôn đánh chuông. Con nghe tiếng chuông, lại càng phóng vào chỗ vô niệm. Thầy đánh chuông càng lúc càng nhanh hơn và lớn hơn để xả Thiền, con lại càng phóng vào Định sâu hơn. Mãi tới bây giờ vẫn vậy. Con biết đó là vì cái kinh nghiệm đầu tiên về trạng thái vô niệm trong khi nghe tiếng chuông ngân của lúc trước.
một lần tọa thiền, con rơi vút vào trạng thái Trống Không thật vững chắc, trong một quãng thời gian mấy mươi phút. Con có ghi lại trong mấy câu sau đây:

CON TÀU VŨ TRỤ
Đêm nay phải ráp con tàu,
Bay vào vũ trụ Trống Không.

Bước vào vô ngôn,
Nhẹ nhàng, thanh thản,
Lâng lâng tươi mát,
Chẳng chút trần ai.

Đầu nghe nặng trĩu, ô hay,
Sao lại hôn trầm,
Ngước lên, gục xuống.
Bỗng nghe như vừa hụt hẫng,
Toàn thân rơi xuống vực sâu...
Nhưng sao như vẫn ngồi yên,
Sững sờ, sáng trưng, tỉnh thức,
Dòng biết không lời miên man chảy,
Ngọt ngào cam lộ,
Ấm áp toàn thân.

Ta phải ráp cho được con tàu vũ trụ,
Để thảnh thơi bay,
Ngàn đời,
Vào cõi Tâm Không...

Trong ba tháng tu học ở Oregon này, những tác động sinh học trong con rất thô, tức là có hoạt hóa cơ bắp, kéo dài bốn tuần lễ, con dứt chứng đau thắt lưng mỗi buổi sáng khi thức dậy; chữa trặc cổ cho con, dị ứng mũi và da. Sau đó, thầy dạy con thở nội lực để chấm dứt hoạt hóa cơ bắp; bấy giờ tác động sinh học dần dần nhẹ nhàng hơn. Con dừng niệm càng ngày càng dễ dàng. Khi con ngồi nghe Thầy giảng pháp, con dừng niệm, và rơi vào vô niệm. Tâm con không có tạp niệm, bao nhiêu lời Thầy giảng, con đều thâm nhậphiểu rõ. Trong tháng sau cùng, Thầy giảng về Cửa Không, Tâm Không, Thầy đã mở ra trước mắt con một chân trời mới. Khi con bay trở lại Cali, con biết mình đã là một con người mới: tự tin, vui vẻ, lạc quan, và nhất là biết rõ con đường mình phải đi tiếp là con đường thênh thang, dẫn tới trí huệtự tại.
Đầu tháng 10- 1996, con trở lại đời sống thường nhật, sau khi khóa học bế giảng. Con vẫn tiếp tục tọa thiền, nhưng không thể giữ thời khóa bốn lần mỗi ngày, và mỗi lần dài một tiếng. Con chỉ tọa thiền mỗi tối một tiếng hay hơn một chút. Ngoài ra, mỗi khi có thì giờ rảnh, con lại tập không nói thầm, dù chỉ trong một thời gian ngắn. Con thực tập trong sinh hoạt hàng ngày: khi tưới cây, nhổ cỏ; khi đọc sách, mệt, xếp sách lại, con nhắm mắt, tắt niệm; trong một buổi họp mặt đông người, ồn ào cười nói, con cũng có thể tắt niệm dễ dàng.
Theo cách tu tập như vậy, con nhận thấy trong thời gian dài xa Thầy xa bạn, giữa hai khóa Nhập Hạ, con đã có nhiều tiến bộ trong sự dụng công theo chiều rộng. Còn sự dụng công theo chiều sâu, chỉ trong giờ tọa thiền, thì con chưa có kết quả gì đáng để trình Thầy.
Từ khi biết phương thức “Lách vào chỗ vô niệm”, con vẫn thường xuyên sử dụng, vì con nhận ra rằng, khi ở trong vô niệm, tâm con yên tĩnh thảnh thơi, và thân lúc đó thật nhẹ nhàng, thoải mái, như là con không còn thân nữa, con vẫn thường có cảm tưởng như là con đang “tàng hình”. Vì lúc đó, mọi diễn tiến chung quanh như khôngliên hệ gì đến con nữa.
Con đang ẩn trú kín đáo trong chính con. Con biết Thầy không vừa ý con nói như vậy. Con xin dùng thuật ngữ chính xác hơn. Con đang ẩn trú trong tánh giác, hay con đang trở về sống trong Tự Tánh. Nơi đó, không có suy nghĩ tính toán, so đo hơn thiệt, không có tranh luận thị phi, không có ưu phiền, không ghét thương, không xúc cảm, không có nước mắt, và cũng không có cả tử thần.
Vào tháng 5- 1997, con lại phải mang thêm cái đại tang cha trên đầu. Từ đây, một thân côi cút trên đời, không nơi nương tựa. Mà sóng gió thị phi thì vẫn cứ thổi tới, không thương xót.
Trong ba tháng liền, mỗi buổi chiều vào ra bệnh viện thăm cha, con đã tận mắt nhìn thấy tất cả những cảnh khổ đau của con người. Không cần phải mượn quán chiếu sanh, lão, bệnh, tử, con cũng nhận ra được, bước vào cánh cổng bệnh viện là vào một thế giới khác, thế giới của tử thần. Địa ngục không phải là đây hay sao.
Từ đó, con lại càng cố gắng tu tập, biết rằng sức khỏe rất quý, mai kia ngả bệnh, làm sao tu tập được. Mà tử thần thì không tha một ai.
Khoảng thời gian này, con có làm mấy câu:

THỈNH CẦU
Buổi sáng soi gương,
Thấy mặt vô thường,
Ngó sợi tóc nhỏ,
Thấy mình đáng thương.

Buổi chiều, vô bệnh viện,
Cánh cổng phân chia cảnh giới người,
Đâu cần quán sanh, già, bệnh, chết,
Cũng thấy đời, nước mắt mà thôi.

Cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn,
Xin ưu đàm hảy nở luôn trên đời,
Sao cho tất cả mọi người,
Tâm hoa khai nở nụ cười vô ưu.
Từ đây, mỗi khi rảnh rỗi, mỗi khi có chuyện buồn phiền, con đều tìm yên tĩnh nơi nghĩa trang. Mỗi lần đi thăm ba ngôi mộ nằm cạnh nhau, chỉ còn là ba tấm bia và một bãi cỏ xanh. Nơi đây, không có tiếng động, không có lời chỉ trích, không có ghen ghét, chê bai, không có thù hận, khinh bỉ, không có buồn phiền, giận hờn. Thân đất, nước, gió, lửa, thì trả về cho đất, nước, gió, lửa. Còn cái dòng sống của mỗi người thì vẫn cứ tiếp tục lưu chuyển trên con đường tiến hóa của mỗi người. Mình còn đang sống đây, vậy phải cố gắng tiến lên một bước để không uổng một kiếp người.
Kính thưa Thầy,
Quãng thời gian qua, chăm sóc ba người bệnh là ba người thân yêu nhất trên đời; mỗi ngày nhìn người ta lần lần đi vào cõi chết, thử hỏi trái tim nhỏ bé, yếu đuối của con làm sao chịu đựng nổi ? Con đã phải phấn đấu với chính con hàng giờ, hàng ngày. Trận chiến này thật là cay đắng. Mãi cho tới khi tu học với Thầy, con mới biết phương thức chiến thắng là bước vào Vô Niệm, hóa giải hết ưu phiền đau khổ. Ngoài ra, con quán chiếu về vô thường. Đến bây giờ, con không còn sợ hãi tử thần nữa, mà con thấy rõ lúc nào tử thần cũng theo ta như bóng theo hình. Khi còn cái sắc thân này, là bất cứ giờ phút nào, nó cũng có thể hoại diệt. Huống chi ở tuổi của con, nhiều người đã bỏ thân rồi; vậy thì cứ coi như mình đã chết, các con cũng phải tự sống mà thôi. Do đó, con mới thảnh thơi mà dự các khóa Hạ ba tháng mỗi năm. Chuyện đời, các con phải tập giải quyết.
Kết quả của những chuyện bất hạnh xảy đến cho con lại giúp con quyết tâm tu học hơn nữa, giúp con nhìn rõ luật vô thường: thân thì vô thường, mà tâm cũng vô thường. Vì thân vô thường, nên mỗi ngày lo tu. Con luôn luôn tự nhắc mình: “Mục tiêu cuộc đời hiện tại của ta là dụng công tu tập cho chính mình”. Còn tâm vô thường, vì thấy tâm mình, khi vui, khi buồn, khi thương, khi giận. Tâm người cũng vậy, lúc đó người ta giận mình, người ta chỉ trích mình, sau nếu hiểu rõ, người ta sẽ đổi tâm. Nếu mình cứ in trí là người ấy xấu, thì mình cố chấp, không biết tâm con người luôn luôn thay đổi.
Vào khoảng tháng 7 năm 1997, Thầy đang ở tại Oregon, thầy giao việc lo tổ chức khóa III Căn bản tại Nam Cali cho con, vì con rảnh rỗi hơn các vị khác. Con tự biết mình không có tài năng gì, con không có tài tổ chức, không thông minh hoạt bát, không biết xã giao, tuổi đời còn nhỏ hơn nhiều vị khác, không thể tránh được những sơ sót, lỗi lầm. Nhưng con biết đây là một Phật sự, con phải ráng dấn thân mà thôi. Bên cạnh con cũng có nhiều vị phụ giúp hết lòng. Công việc êm xuôi trôi chảy, chỉ chờ ngày khai giảng lớp. Không ngờ phút chót lại có trục trặc, vài ba vị không đồng ý địa điểm. (Địa điểm dự định tại một ngôi nhà rộng rãi khang trang ở Corona, do hai thiền sinh trẻ phát tâm cúng dường trong ba tháng để Thầy mở khóa hạ nhập thất và khoá tu học.) Họ kêu gọi hội họp, biểu quyết. Một mặt, họ điện thoại tới đả kích con. Đồng thời, bên ngoài lề, lại có dội lại con, từ một hướng khác, những lời công kích rêu rao khắp nơi về con. Do đó, thầy dự định hủy bỏ khóa III. Con tự trách con vụng về, bất tài, nên có một việc nhỏ Thầy giao mà làm không xong. Trong quãng thời gian này, gia đình con lại có một việc không như ý. Con nghe mà muốn khóc, không biết phải xử trí ra sao cho vẹn toàn. Bấy giờ đêm đêm lại chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình, nước mắt cứ âm thầm chảy, các con không hay biết. Nếu chỉ có một việc bất như ý, chắc con còn ráng đứng vững được, thêm một việc bất như ý nữa vừa mới xảy ra, con thật cùng đường. Đêm đêm ngủ, con lại xin: “Sáng mai, con không muốn thức dậy nữa.”
Lúc ấy, con biết rõ là con đang bị khủng hoảng tinh thần. Con đem hết nhiệt tâm ra làm việc; đối xử với mọi người tử tế chân thật; làm không vì lợi lộc, không ham danh tiếng, làm một việc có ích lợi chung cho tập thể; vậy tại sao có người nhìn con trong cái nhìn xấu xa như vậy ?
Trong gần một tuần lễ, con sống vật vờ, trong tâm bối rối, ngổn ngang. Con lại tự nghĩ: Nếu mình không giải quyết được các sự kiện này, tâm cứ rối ren hoài, làm sao nhập thất được, chỉ còn hai tuần nữa thôi. Nếu không giải quyết được, quyết định “Không nhập thất.”

Kính thưa Thầy,
Một đêm kia, sau một giấc ngủ dài, con thức dậy, trong đầu lóe ra hai chữ “VÔ TÁC.” Con biết ngay đây là cửa giải thoát thứ ba trong Ba Cửa Giải Thoát: Không, Vô Tướng, Vô Tác. Con cũng biết cửa này còn có tên nữa là Vô Nguyện. Lúc bấy giờ con chỉ mới học xong khóa căn bản, chưa được học chủ đề “Ba cửa giải thoát” của chương trình Bát nhã vì Thầy chưa mở khóa Bát nhã, nên con chỉ hiểu là con nên làm tất cả mọi việc, vì người, mà không có lòng mong cầu điều gì, không đợi người biết ơn hay đền đáp; không tác ý vào sự việc, không khởi ý định, ý muốn, hay ý đồ gì. Mọi việc sẽ trôi chảy theo nhân và duyên của chúng. Con hiểu rằng: nếu con làm trong cái Biết trong sáng của tánh giác; đến kết quả của sự việc, con cũng giữ vững cái Biết trong sáng của tánh giác; thì con sẽ thoát ra ngoài phiền não, nghiệp chướng.
Con đem ráp “Vô Tác, Vô Nguyện” vào sự việc thứ nhất. Con đã thành tâm làm mọi việc trong sức của mình rồi, bây giờ kết quả ra sao, do những duyên khác, ngoài tầm tay của con. Những ai tạo ra nhân gì, duyên gì, sẽ hưởng kết quả của họ.
Đây là lần đầu tiên, con thấy mình, rõ ràng, đứng trên bờ, ngắm nhìn dòng sông nhân quả, trôi chảy bên ngoài mình.
Sau này, con có làm bốn câu thơ, nhưng giờ đây, con chỉ nhớ có một câu chót:
“Dòng sông nhân quả trôi ngoài tâm không.”
Ni Cô Và Giòng Sông
Bây giờ, Thầy dạy dụng công cho tánh giác được vững chắc để làm nhân chứng, đối với Niệm, trong khi tọa thiền. Hồi đó, con chưa được học đến hai chữ “Nhân Chứng”; con chỉ tự nhắc mình lúc nào cũng phải đứng ngay bực cửa giải thoát thứ ba: “Vô Tác, Vô Nguyện” thì mình sẽ an toàn. Nếu khởi ý, nếu mong cầu, thì lập tức sẽ rơi vào dòng sông nghiệp báo kia.
Sau đó, con lại đem ráp “Vô Tác, Vô Nguyện” vào việc gia đình, con cũng tìm ra được giải pháp êm đẹp. Từ đó, tâm con an. Con mới biết điều kiến giải do tánh giác bật ra đã đưa con ra khỏi chỗ bế tắc một cách dễ dàng, mà rất kỳ diệu. Giống như trò chơi Puzzle, phải tìm mảnh vụn nào ráp vào chỗ trống của bức tranh cho thật vừa vặn, sát sao, mỗi cạnh không dư, không thiếu. Lời kiến giải của tánh giác cũng vậy, ráp vào mọi sự, mọi việc, thích hợp, thỏa đáng.
Tuy nhiên, cho đến bấy giờ, tánh giác của con chỉ bật ra kiến giải khi con bị bế tắc mà thôi.
Ngày 9 tháng 8- 1997, Thầy khai giảng khóa Hạ, là khóa Giáo Thọ sơ cấp, đầu tiên, và cũng khai giảng khóa III, lớp 1 tại thành phố Corona.
Về mặt dụng công, khóa Hạ mỗi ngày sáu tiếng rưỡi tọa thiền; con có tiến bộ một bước; dừng niệm được lâu hơn và vững hơn trước. Bây giờ nhìn lại, con biết lúc đó, con ở trong trạng thái- tạm gọi là tâm hỷ lạc: lúc nào cũng thấy vui, cũng sẵn sàng cười, cười ha ha mà không có lý do. Ngẫm nghĩ lại, con cũng thấy lạ: tang cha mới mấy tháng, vài tuần trước còn buồn phiền; tại sao vào thất, lại quên hết chuyện cũ, tâm cứ thơ thới, an vui, hễ xả thiền ra là cười.
Tuy nhiên, nếu ai không cùng ở trong trạng thái này sẽ không hiểu được, và lúc đó đã có vài nhận định nghiêm khắc về con.
Bây giờ, con không còn cười dễ dàng như lúc đó nữa. Và con cũng hiểu tại sao Phật dạy phải “Ly hỷ, trú xả.” Lúc trước con suy nghĩ: “Hỷ lạc là vui vẻ, thích thú. Trạng thái tâm này là tốt, sao phải bỏ đi ?”
Bây giờ con hiểu tâm hỷ lạc không thể kéo dài lâu, vì nó không vào định sâu hơn được. Tâm bình thản dửng dưng trước mọi sự việc mới vào định sâu dễ dàng. Tuy nhiên, phải đặt vấn đề lại cho chính xác hơn. Tâm Hỷ lạc là kết quả của sơ định. Tâm Xả hay tâm bình thản là kết quả của mức định vững chắc hơn.
Ngày 24- 5- 1998, Thầy khai giảng Khóa Hạ và Khóa IV. Trong quãng thời gian này, tánh giác của con đôi khi có cho ra những lời kiến giải trong các buổi sáng sớm khi thức giấc, và ngay cả trong thời tọa thiền buổi sáng; nhưng những điều này không quan trọng nên con không còn nhớ rõ. Tuy vậy, con có một nhận định rõ ràng là: có lúc quả thật: “Ta và tánh giác hợp làm một thể thống nhất.”
Điều này, trong khóa III- 1997, Thầy đã có giảng. Con nghe, hiểu, nhưng trên lý thuyết mà thôi. Đến nay, con mới thâm nhập được thực sự “Thể thống nhất” đó ra sao. Khi trong đầu con lóe ra một lời kiến giải, con biết rõ: “Cũng là Ta.” Làm sao để phân biệt cái nào là tánh giác, cái nào là trí năng ? Câu trả lời thật giản dị: khi có suy nghĩ, đó là trí năng, đó là phàm ngã chủ động; khi không suy nghĩ, đó là tánh giác làm việc. Mỗi khi con có một lời kiến giải mới lạ, hay ho, con thường soi lại xem nó có thực sự bật ra khi con tắt suy nghĩ hay không.
Lúc trước, lời kiến giải của tánh giác thường bật ra sau một giấc ngủ ngon. Con biết là sức định của con còn yếu, chưa đóng cửa được trí năng, phải nhờ giấc ngủ mới đóng được trí năng. Về sau, lần lần trong giờ tọa thiền buổi sáng sớm, đôi khi con có những lời kiến giải nho nhỏ. Từ đây, con dần dầnthói quen không cần suy nghĩ, mà con làm theo trực giác. Con sử dụng thuật ngữ “trực giác” cho dễ hiểu. Thật ra, đó là con biết như thế nào, con làm theo thế ấy. Ví dụ, sau những bài giảng dài của Thầy, con viết lại bài đúc kết, gọn gàng, theo một dàn ý rõ rệt, dễ nhớ; con làm thật nhanh, không cần làm nháp, không cần suy nghĩ.
Cho đến cuối Khóa Hạ, con mới thấy rõ hơn vai trò của tánh giác trong bài trình mãn khóa của con.
Khi Thầy cho ba vị nhập hạ bạn con mỗi người một chủ đề, Thầy có hỏi con: “Con chọn chủ đề gì để trình cho năm nay ?” Con thưa con chưa có chủ đề.
Lúc ấy, 12 vị của Khóa IV cũng đã chọn mỗi người một chủ đề riêng. Như vậy đã có 15 chủ đề rồi, con không còn ý gì đặc sắc nữa. Tuy vậy, con vẫn bình thản, không nôn nóng, không suy nghĩ; thực ra đầu óc con lần lần làm biếng suy nghĩ một cách tự nhiên, không phải con cố ý không suy nghĩ.
Cho đến mấy ngày sau, trong giờ tọa thiền 5:30 sáng, trong đầu con hiện ra chủ đề bài trình mãn khóa, rồi kiến giải ra luôn cái dàn ý thật rõ ràng, thêm thắt toàn bộ chi tiết cho dàn ý. Sau khi xả thiền, buổi điểm tâm sáng xong, con chỉ cần lấy giấy viết ra ghi lại toàn bộ dàn ý. Từ đó, nhìn vào dàn ý, con từ từ khai triển ra, viết lại bài trình.
Mỗi buổi sáng, sau khi xả thiền, con lại có thêm nhiều ý tứ để viết tiếp bài của con. Khi thấy ý đã cạn, con xếp lại giấy viết, đi làm việc khác, theo thời khóa của Nhập Hạ.
Đến khi con đúc kết tất cả các kỹ thuật và chiêu thức dụng công, con mới trình Thầy là con đã sắp xếp thành ba kỹ thuật chính, ứng hợp với ba mức định:
1- Không định danh đối tượng: để đi đến Sơ định là Biết không lời.
2- Thầm nhận Biết: để đi đến Cận hành định là Định không tầm không tứ.
3- Tỉnh thức Biết: để đi đến An chỉ địnhChánh niệm tỉnh giác.
Còn hai kỹ thuật: Không dán nhãn đối tượng và Chú ý trống rỗng là phụ thuộc, nằm trong kỹ thuật thứ nhất mà thôi. Thầy không đồng ý. Thầy dạy con: “Có tất cả năm kỹ thuật. Không dán nhãn đối tượng và Chú ý trống rỗng là hai kỹ thuật riêng, quan trọng, cần thiết, ngang với kỹ thuật Không định danh đối tượng.”
Con vâng dạ, mà vẫn chưa hiểu được hai kỹ thuật ấy quan trọng ra sao. Lúc ấy, con bị khựng lại, không làm bài tiếp được nữa. Vì con chỉ hiểu là ba kỹ thuật ấy tương tự nhau, tại sao lại không thể xếp chúng cùng chung trong một kỹ thuật ?
Buổi sáng hôm sau, tự nhiên con hiểu rõ tất cả vấn đề, con thấy được điểm giống nhau của ba kỹ thuật là đưa đến dừng niệm trong bước đầu dụng công. Nhưng mỗi kỹ thuật phải ứng dụng trong tư thế riêng; kỹ thuật nào ứng dụng trước, nếu không kết quả, sẽ ứng dụng tới kỹ thuật kia. Kỹ thuật Không định danh đối tượng vẫn là bước quan trọng hàng đầu, cần thực hành miên mật qua các tư thế nhìn phong cảnh: nhìn lướt, nhìn chằm chằm, nhìn gần, nhìn xa, thiền hành vv...Nếu kết quả dừng được niệm từ đầu, thì không cần tới kỹ thuật Không dán nhãn đối tuợng và Chú ý trống rỗng. Còn kỹ thuật Không dán nhãn đối tượng đặc biệt ứng dụng trong mối quan hệ giữa người và người: lúc nào cũng phải giữ vững “cái nhìn như thật về đối tượng” của tánh giác: không nên nhìn người qua lăng kính méo mó, tối tăm của tập khí của mình. Nếu ta dán nhãn cho người khác, tức là ta tạo ra một mạng lưới niệm vô minh gồm: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... của chính tâm mình, và tạo ra phiền não cho chính mình trước nhất. Còn kỹ thuật Chú ý trống rỗng ứng dụng khi ta tập chú vào một đối tượng, ở gần hay xa, nhưng ta không chú ý đến nội dung, chi tiết gì của đối tượng; chỉ giữ vững cái thấy biết, nghe biết và xúc chạm biết về đối tượng mà thôi.
Những điều hiểu biết này, đối với người khác, cũng không có gì là đặc sắc. Tuy nhiên, đối với con mà nói, đêm trước con còn hiểu lờ mờ, sáng hôm sau lại nhận ra được rõ ràng.
Từ đó, con viết cho đến xong bài, không còn nghi vấn gì nữa. Nhưng một buổi sáng, con phải viết thêm một trang trình bày về chức năng của tánh giác. Con nhận rõ rằng tánh giác có hai chức năng quan trọng.
Chức năng đầu tiên là Kiến Giải tổng quát, nói dễ hiểu là “cái nhìn như thật”: vật thế nào thấy biết y thế đó, không suy nghĩ, không quán chiếu, không xét đoán, không thêm thắt gì... Nếu ta dụng công thường xuyên trong lúc đối duyên xúc cảnh, ta sẽ kinh nghiệm được “Bình thường tâm.” Nếu tọa thiền, ta sẽ vào Định. Tuy nhiên, nếu chỉ tới đó, tâm sẽ an, tĩnh lặng, nhưng trí huệ chưa phát sáng. Chỗ này, con nghĩ là chỗ mà các vị Tổ nói: “Trầm không trệ tịch,” là chỗ “Đầu sào trăm trượng,” là chỗ “Vô tâm còn cách một lớp rào.” Phải vào Định thật sâu, thật vững chắc. Đó là trong suốt thời thiền, ít nhất là 20 phút, ta biết rõ ràng mình đang trong trạng thái không tầm, không tứ, trí huệ mới bật ra được từ từ.
Do đó, để bổ sung cho việc dụng công, các vị Tổ Thiền Tông đã đề cao sự kiện Ngộ. Đây là chức năng thứ hai của tánh giác.
Mỗi lần Ngộ là có chuyển hóa tập khí. Tập khí thật sự là những thói quen, nó biểu lộ ra cử chỉ, hành động, ý nghĩ, lời nói của ta. Mỗi khi Ngộ một điều gì, lập tức nhận thức của ta chuyển đổi, nội tâm ta cũng chuyển đổi theo, trí huệ từ từ phát sáng ra.
Đó là tập khí cũ đã được chuyển hóa một phần, chuyển hóa tức khắc. Trong khi quán chiếu, ví dụ về thực tướng của hiện tượng thế gian, cũng giúp ta có một cái nhìn mới, nội tâm chuyển đổi từ từ. Do đó, tập khí cũng được chuyển hóa, nhưng chậm hơn.
Khi Ngộ một điều gì, có nghĩa là ta thoát ra khỏi một vấn đề bế tắc nào đó. Trong một đời tu, ta có thể phải trải qua nhiều lần ngộ.
Cho nên, con hiểu giác ngộ là một tiến trình; cũng như giải thoát cũng là một tiến trình. Và giải thoát thực ra là kết quả của giác ngộ.
Bài trình mãn khóa của con dài 22 trang viết tay, chủ đề là “Con đường Thiền ta đi.”
Khi lên trình bày trước Thầy và trước khóa học, con lại còn có thêm một ý mới lạ, trong bài không có ghi, mấy ngày trước cũng không hề nghĩ tới. Đó là con giải thích rõ về ly dục trong thời gian khổ hạnh của đức Phật, dứt ngũ chướng sau khi đạt Vô Tầm Vô Tứ Định, và lời công bố của đức Phật sau khi thành đạo: “Như Lai đã chứng quả Vô Sanh Bất DiệtNhư Lai đã tận diệt mọi ái dục.”
Con đã giảng và phân biệt ba mức độ diệt trừ ái dục đó.
Kính thưa Thầy,
Trên đây, con cố gắng ghi lại vài sự kiện đối với con là đáng nhớ, để trình Thầy.
Cho đến bây giờ, con vẫn chưa làm chủ được Tầm Tứ trong suốt buổi tọa thiền. Tuy vậy, có khi đó là kiến giải của tánh giác bật ra, nên con cứ để nó diễn biến tự nhiên. Nhưng con cũng biết rõ khi nào nó là tầm và tứ, cần phải chủ động tắt. Đây là nhược điểm của con, con biết con cần phải công phu miên mật hơn nữa để thực sự có kinh nghiệm định sâu hơn. Đó là trong đầu tầm tứ tự yên lặng.
Bây giờ, càng ngày con càng nhìn rõ tâm của con. Lúc nào có niệm sân nổi lên, con biết, con theo dõi coi nguyên nhân từ đâu và nó muốn làm gì. Lúc nào có niệm buồn, con biết và nhìn nó coi nó hết chưa. Con vẫn còn sử dụng “Phản quan tự kỷ.” Pháp này giúp ích cho con nhiều lắm. Nhờ nó mà con từ lần ít xét đoán, ít phê bình người khác. Họ có cử chỉ, hành động hay lời nói, cách sống ra sao, cũng như là những hình ảnh phớt qua mắt con, không để lại ảnh hưởng gì để cho con bận tâm. Ngay cả những lời nóiliên quan đến con, chỉ giúp con soi lại tâm mình, coi có thực sự xấu như vậy không.
Con lại có một phương cách riêng để tự nhắc nhở. Đó là con tự hỏi: “ Nếu như mình còn một tuần lễ nữa phải chết. Vậy bảy ngày này còn sống, nên làm gì đây ?”
Câu trả lời thật rõ ràng. Con chỉ có một việc phải làm là tự mình dụng công tọa thiền ngày đêm, để khi ra đi không bỡ ngỡ.
Con vẫn thường xuyên nhắc nhở mình như vậy; con cứ đem Tử Thần ra mà dọa cái tên phàm ngã lười biếng gian xảo của con. Nó đâu có bao giờ đưa bộ mặt thật của nó ra, là bộ mặt vô minh, dễ ghét của nó, chỉ gồm: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... Nó cứ mang mặt nạ tốt đẹp ra để đánh lừa con, đánh lừa thiên hạ. Vì vậy, trận chiến giữa tánh giác và phàm ngã này vẫn cứ còn liên miên, tối trời tối đất.
Giống như trận chiến giữa Tôn Hành Giả thật và Tôn Hành Giả giả, mặt mũi cứ giống nhau, chỉ khác cái tâm thôi. Tuy vậy, con nhận ra được khi nào là tánh giác chủ động, khi nào là phàm ngã; con cố gắng công phu để có thể sử dụng được Kho Châu Báu của mình.

Mấy tháng nay, con được học hỏi nơi “Kho Châu Báu” của Thầy. Thầy đưa quyển Tự Điển Song Ngữ cho con ráp nối và đánh vào máy computer để làm bộ Tự Điển Phật Học Thiền Dụng Yếu Lược. Con có dịp đọc đi đọc lại, nghiền ngẫm từng câu, từng ý, từng từ. Con biết thêm được chút ít tiếng Pàli, Sanskrit, tiếng Anh. Và quan trọng hơn, là con hiểu được thêm nhiều về ý nghĩa chính xác của những thuật ngữ Thiền. Con lại thích thú học hỏi thêm những lời giảng dạy của Phật, của các vị Tổ, những công án nổi tiếng, những điển tích hành trạng trong Thiền sử.
Công việc này đã rèn luyện con rất nhiều: phải nhẫn nại, phải thận trọng, phải có trách nhiệm, phải cầu tiến, và nhất là con phải chú tâm vào công việc mà thôi: nên con không có tạp niệm.
Đến bây giờ, nhìn lại quãng thời gian bốn năm qua, bao nhiêu sự kiện xảy đến cho con: có vui, có buồn, có lời khen, có tiếng chê trách, người thương, người giận. Tất cả đều giúp cho con vượt qua được, và tiến tới trên bước dụng công tu tập của con. Hoàn cảnh càng dồn con tới chỗ bế tắc, càng thúc đẩy con nhảy vọt lên, giống như hình ảnh “Cá nhảy khỏi lưới” mà Hòa Thượng Sư Ông có lần đã giảng. Tất cả mọi việc xảy đến cho con đều là thuận duyên cho con tu tập. Con không còn thấy là chướng ngại nữa.
Con nhớ lời Phật dạy: Không ai có thể làm cho ta bị ô nhiễm, cũng không ai có thể làm cho ta trong sạch. Chỉ có ta tự làm cho mình ô nhiễm hay trong sạch.
Bây giờ, con nhận ra rằng con chỉ có thể làm chủ thân và tâm của chính con và chỉ chính con mà thôi. Con ráng tu tập làm sao để chỉ làm chủ được thân và tâm của chính mình trong hiện tạimai sau. Con biết mỗi người phải tự mình đặt bước chân đi trên con đường tiến hóa của chính mình; không ai có thể đi giùm, tu giùm hay sống giùm mình được.
Kính thưa Thầy,
Trên đây chỉ là vài kinh nghiệm thô sơ của con.
Công ơn Thầy, đối với tất cả chúng con, thật như trời biển.
Đệ tử kính bái.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1777)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 1977)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
26 Tháng Tám 20232:36 CH(Xem: 1912)
Tuệ ở đây mình muốn nói tới Vipassanā, Tuệ Minh sát. Trong giới hạn bài này, mình bàn tới bài Kinh Niệm Xứ, trong kinh Nikāya. Mặc dù thông thường người ta vẫn nói “Quán Tứ niệm xứ”, trong bài kinh cũng nói “Quán thân” (Kāya-anupassanā) v.v…nhưng hiện nay các vị tôn đức xếp bài kinh Niệm xứ là Vipassanā, là thuộc Tuệ. Cho nên trong bài này, mình cũng tạm nói là Tuệ, tức là dùng tuệ thực hành...
20 Tháng Tám 202310:54 SA(Xem: 2228)
Nói tới Quán, có vài loại Quán hơi khác nhau, trong bài này chỉ xin nói tới loại Anupassanā, nghĩa thông thường là nhìn ngắm hiện tượng thế gian liên tục để nhận ra bản thể hay đặc điểm của hiện tượng thế gian là: vô thường, khổ, vô ngã. Vậy mình cũng có thể hiểu Quán là quan sát hiện tượng thế gian bằng con mắt trí tuệ.
14 Tháng Tám 202311:20 SA(Xem: 1722)
Muốn đạt được kết quả tốt, người thực hành phải hội đủ 5 tiêu chuẩn cần thiết: Tự lực, Nhu cầu, Quyết tâm, Lý thuyết, và Lý luận. Đây là 5 tiêu chuẩn lập thành hệ thống lý luận thực tiễn trong việc thực hành Thiền Phật giáo. Muốn điều chỉnh thân, cải tạo tâm, cân bằng thân-tâm, và phát huy trí tuệ tâm linh có hiệu quả, 5 tiêu chuẩn nói trên không thể tách rời nhau được.
09 Tháng Tám 202312:40 CH(Xem: 2003)
Cốt lõi là cái tinh túy, cái tinh ba. Chớ không phải cái bề ngoài. Nếu so với cái cây, nó không phải là lá cây, cành cây.v.v. mà là cái lõi bên trong của cây. Cái cốt lõi đó phải ngắn gọn, mới gọi là cốt lõi. Mà trong đạo Phật có nhiều cốt lõi lắm. Tại sao vậy?
02 Tháng Tám 20238:44 CH(Xem: 1982)
Chư Tổ Phát Triển thường nói có tới 84 ngàn pháp môn tu, tức là có vô số cổng để bước vào ngôi nhà giác ngộ, hay ngôi nhà giải thoát. Hôm nay chúng ta thử khảo sát cánh cổng của Giới.
31 Tháng Bảy 202310:00 SA(Xem: 1441)
“Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau.
17 Tháng Bảy 20231:44 CH(Xem: 1334)
Dès la clôture de la retraite bouddhique à Berlin, notre groupe de bhikkhunis - Nhu Minh, Nhu Sen et moi-même - a pris le lendemain, 19 mai, l'avion pour Paris. Le 20 mai au matin, la retraite de courte durée y a commencé, durant 3 jours, samedi, dimanche et lundi. Ce stage est également bilingue français-vietnamien avec la présence de quelques francophones qui écoutaient en direct l’enseignement à l’aide des écouteurs personnels. Ainsi la traduction ne gênait personne, et le cours se déroulait normalement comme d'habitude.
12 Tháng Bảy 20234:15 CH(Xem: 1782)
KINH VĂN : Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. bao gồm bản Hán Việt, bản dịch nghĩa, bản Anh ngữ & Pháp ngữ
05 Tháng Bảy 20239:06 SA(Xem: 1041)
Như vậy con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
13 Tháng Sáu 20237:59 CH(Xem: 1530)
Hòa Lan, thành phố đông người trần tục hay vườn hoa thiên nhiên với con người an vui thanh thản?
11 Tháng Sáu 20234:39 CH(Xem: 1290)
Le 4 mai commençait la retraite dans un centre de la ville de Moissac. Cet endroit, situé sur une haute colline tranquille ayant abrité déjà plusieurs retraites bouddhiques, était un ancien couvent carmélite, aujourd’hui transformé comme lieu de villégiature pour touristes. La Sangha de Toulouse a toujours été composée davantage de pratiquants français que vietnamiens, d’où la nécessité d’organiser la retraite en bilingue. Tout le monde doit rester sur place, car c'est loin de Toulouse.
05 Tháng Sáu 20236:34 CH(Xem: 1547)
Trường Bộ Kinh Digha Nikaya 16. Kinh ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN (Mahàparinibbàna sutta)
30 Tháng Năm 20234:42 CH(Xem: 1097)
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
29 Tháng Năm 20233:10 CH(Xem: 1170)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1237)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1488)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1135)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
11 Tháng Năm 20239:41 SA(Xem: 1553)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
10 Tháng Năm 20237:33 CH(Xem: 1204)
Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.
02 Tháng Năm 202312:58 CH(Xem: 1527)
Mười Hai Duyên Khởi, cũng còn gọi là Mười Hai Nhân Duyên, là 12 nhân duyên liên kết nhau để hợp thành một chuỗi nhân quả (P: nidāna). 12 nhân duyên như 12 mắt xích hay 12 nguyên nhân đưa đến tình trạng Khổ của con người hay tái sinh.
30 Tháng Tư 20238:57 CH(Xem: 1323)
Der Buddha sagte: "Der Tathagata ist nur ein Wegweiser, alleine musst du gehen." Das heißt, du kennst nun den Weg, gehst alleine hin, verlass dich auf niemanden, der richtige Weg ist deine Weisheit, die dich zu deinem ursprünglichen Geist zurückbringt. Im ursprünglichen Geist sind alle Phänomene Buddha-Dharmas, und die Welt ist ein reines und glückliches Nirwana.
24 Tháng Tư 20236:07 CH(Xem: 1180)
Trong thiền Phật giáo có nhiều nguyên lý tâm linh dẫn đến mục tiêu cứu cánh là chuyển hóa tâm, cân bằng thân-tâm, phát triển tuệ giác, và giải thoát.
17 Tháng Tư 202310:01 SA(Xem: 1727)
Thiền Tánh Không do Hòa Thượng Thiền Chủ Thích Thông Triệt thiết lập, kết hợp những tinh hoa rút từ tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca, các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, Thiền Tông và kỹ thuật Thiền, được soi sáng bởi các khám phá đương thời của khoa học não bộ và các chứng ngộ của Thầy thành một hệ thống tu thiền sâu sắc, tân thời, rõ ràng và hiệu quả.
69,256