HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Thông Triệt: Bài đọc thêm khóa Chuyên Tu Thiền Định: NHẬN THỨC

17 Tháng Giêng 20226:47 CH(Xem: 2781)

Thích Thông Triệt
Bài đọc thêm khóa Chuyên Tu Thiền Định
BDT ChuyenTu ThienDinh_Nhan Thuc

Giới thiệu bài

NHẬN THỨC

 

Người nào học thiền mà không nắm vững chủ đề nhận thức thì cuộc đời tu thiền của mình kể như buông trôi. Tại sao vậy?  Vì chủ đề nhận thức là chính nó có khả năng đưa ta tới nơi giác ngộ tối hậu; hoặc đưa ta đến nơi tỉnh ngộ, để rồi từ đó ta sẽ bước tiến lên những bậc thang giác ngộ; hoặc từ đó ta thong dong đi lại trên con đường giải thoát.  Vậy bây giờ chúng ta cần phải tiến sâu vào rừng ngôn ngữ để tìm xem toàn bộ vấn đề nhận thức thật sự chúng là gì, cấu trúc như thế nào trong não bộ con người.   Chúng đóng vai trò gì, chức năng của chúng có nhiệm vụ gì đưa chúng ta đến con đường tu tập thoát khổ, giác ngộgiải thoát.  Có bao nhiêu loại nhận thức, đặc tính của những loại nhận thức đó như thế nào?  Là người chuyên tu định, chúng ta phải có những nhận thức nào phù hợp với việc chuyên tu định.

 

Ở đây chúng ta đã nhiều ngày học về định không tầm không tứ, qua đó chúng ta đã học nhiều chiêu thức và kỹ thuật để trọng tâm nhắm đến là cắt đứt đường mòn ngôn ngữ bằng hai tiếng nói thầmkhông nói”Chúng ta đã học tới học lui nhiều lần, bây giờ nói đến cách làm chủ tâm ngôn là chúng ta biết rõ cách đó áp dụng như thế nào, tác dụng ra sao trong não bộ của chúng ta.   Như vậy là kết quả chúng ta đạt được nhận thức về sự kiệnđịnh không tầm không tứ” qua đó bây giờ nếu có ai đề cập đến hai từ “không nói” làm phương tiện để đạt đến định không tầm không tứchúng ta tin tưởng ngay người đó chỉ bày đúng cách.

 

Đây là những dòng chữ được trình bày lại cho quí vị nào ham thích học thiền mà chưa có kinh nghiệm gì về thiền được biết rõ ràng về vai tròchức năng cùng đặc tính của  nhận thức bên trong não bộ của chúng ta.  Để rồi từ đó chúng ta sẽ chọn những loại nhận thức nào phù hợp để chúng ta đi trọn con đường thiền mà không còn hối tiếc về những thú vui trần tục.  Mong là bài Nhận thức dưới đây sẽ giúp quí vị đạt được những thành quả tốt đẹp theo hoài bảo và nguyện vọng của quí vị.

NHẬN THỨC

                                        P: pajānati, parijānanā  :  cognition

                                         Pparijānāti :  to cognize

                          * Nhận thức: to cognize; to know, to understand; to perceive.

                          * Nhận ra: to recognize, to perceive, know, to be aware of.

1.  Ý NGHĨA

  1. Nhận thức có nghĩa điều gì đã được biết qua lý luận, tri giác, xét đoán, ký ức, hay trực giác. Nó là điều đã được lãnh hội, đã được hiểu biết, đã được nhớ, đã được kinh nghiệm về đối tượng hay thực tại riêng lẻ (individual events) bên ngoài giác quan.
  2. Nó không phải là sự quán xét nội tâm mà là hiểu rõ thực tại hay đối tượng bằng sự hình dung hay bằng sự gợi lên. Vì thế, trên nguyên tắc này tất cả nhận thứckinh nghiệm được điều khiển bằng bộ máy giác quan của chúng ta vào cơ chế kiến giải tổng quát, nơi đó đối tượng hay thực tại được lọc (sifted), được xếp thứ tự (ordered) và được gìn giữ (preserved) tại trung tâm ký ức dài hạn như là những dấu vết của kinh nghiệm trước.

Do đó, nhận thức luôn luôn kết hợp với ký ức của những sự kiện riêng lẻ. Ta nhận thức cái gì và cái đó đã có sẵn trong bộ nhớ của não bộ. Khi nhận thức có mặt, đối tượng hay thực tại vốn đã được hình thành trong nhận thức. Như vậy, đối tượng hay thực tại nằm bên trong nhận thức. Có nghĩa đối tượng hay thực tại nội tại (immanent) trong nhận thức. Nó và nhận thức là một. Như vậy, không thể có nhận thức mà không có đối tượng hay thực tại. Hễ có nhận thức, nhận thức đó phải có đối tượng hay thực tại.

Thí dụ :   Nếu không học về những ý nghĩa của tánh giác và không nắm vững nghĩa bình dân của tánh giác, khi có một người nào đó đề cập đến tánh giác, ta sẽ không thể nào hình dung ra được tánh giác là gì, chức năng của nó như thế nào, tác dụng của nó ra sao đối với việc phát huy trí huệ tâm linh. Còn khi đã học và đã kinh nghiệm được những phần cơ bản trong cơ chế tánh giác, khi có một người đề cập đến tánh giác, ta liền có nhận thức ngay về tánh giác như thế nào theo sự hiểu biếtkinh nghiệm của ta. Trong trường hợp này, tánh giác là sự kiện riêng lẻ của nhận thức. Bởi vì tất cả mọi người đều có nhiều kinh nghiệm theo từng sự kiện khác nhau. Như vậy, bất luận khi nào ta muốn nhớ lại bất cứ điều gì đã xảy ra trong quá khứ, sự kiện đó được gọi là sự kiện riêng lẻ. Sự kiện này được lập thành trong nhận thức của ta. Nó đã nội tại trong nhận thức. Do đó, khi muốn nhớ lại sự kiện đó, ta chỉ cần gợi lên ý muốn nhớ lại sự kiện đó, tức thì hình ảnh đó liền hiện ra trong nhận thức của ta.  Như vậy, trong nhận thức luôn luôn phải có ký ức về sự kiện. Không có ký ức về sự kiện, nhận thức không thể thành lập.

  1. Theo nghĩa rộng, ta có thể nói nhận thứchoạt động của tâm kết hợp với sự biết (knowing) và nhớ lại (remembering) điều gì đã xảy ra trong quá khứ. Thông thường hoạt động này có kết hợp với suy nghĩ. Nhưng có nhiều trường hợp hoạt động của nhận thức không cần có suy nghĩ. Đó là những hoạt động theo bản năngthói quen. Thí dụ, đi xe đạp hoạt động theo thói quen. Ta không cần suy nghĩ phải đạp như thế nào bởi vì ta đã thông thạo cách đạp từ thuở bé. Thí dụ, trời mưa to, ta cần tìm chỗ đụt mưa. Đây là hoạt động theo bản năng.  Trong hai tiến trình này, không có mặt suy nghĩ.
  2. Nhận thức là một tiến trình biết (knowing) bằng kinh nghiệm hay khả năng của tính nhận thấy (perceptivity) đối tượng hay thực tại mà ta đã trải qua kinh nghiệm. Khả năng này bao gồm tất cả cách thức như hình dung (imagining), nhận thấy (perceiving), lý luận (reasoning), suy luận (infering), xét đoán (judging), nhớ lại (remembering), và hình thành trong não (conceiving) bằng một biểu tượng nhận thức (symbolic cognition) về điều đã được biết (known) hay đã được nhận thấy (perceived) trong thời gian qua, và khả năng lượng giá/ước lượng (evaluate) về điều được nhận thấy hay đã được biết rồi như thế nào.

Đây là cách vận dụng (the handling) giác quan, trí năng hay tri thức (knowledge) để đáp ứng lại (response) điều gì do mắt thấy đối tượng hay thực tại, tức ngoại trần (external world) hay các căn (sensory organs or faculties of senses) khác tiếp xúc (contact) ngoại trần.

  1. Trên phạm vi tục đế, nhận thức là nền tảng cơ bản của ý thức trong sạch (không dính mắc). Thiếu chức năng nhận thức đúng đắn, ý thức dễ bị ảnh hưởng bởi năng lực tập khí/lậu hoặc. (Đây là trạng thái ý thức bị nhiễm ô (defiled) hay bị tình cảm (affection) chi phối). Trong trường hợp ý thức bị nhiễm ô dễ phát sinh tâm hoạt động theo bản năng, theo tình cảm (affection), và theo truyền thống thế gian (worldly traditions). Phiền nãovô minh xuất hiện trong tâm khi ý thức bị nhiễm ô hay khi nhận thức mới chưa được lập thành trong tâm.  Thí dụ như đánh giá sai lầm một người nào đó qua biểu hiện bề ngoài của  người đó.
  2. Trên phạm vi chân đế, nhận thức là nền tảng của trí tuệ Bát Nhã. Đây là trạng thái nhận thức không lời  trong 4 oai nghi. Trong đó không có tri kiến phân biệt, không có thành kiến, định kiến, và thiên kiến chủ quan. Tập khí hay lậu hoặc không tác động tâm thức trong trường hợp này. Thiếu chức năng nhận thức không lời, trí tuệ Bát Nhã không được lập thành. Chánh kiến không thể có mặt, do đó an lạc không thể xuất hiện. Ở đây, an lạc mang ý nghĩa tâm an vui, thanh thản, và hài hòa cùng với môi trường chung quanh thường trực, chứ không phải an lạc trong thời gian ngắn.
  3. 7.    Thông thường với người chưa kinh nghiệm làm chủ niệm khởi, nhận thức chỉ cho mức độ cao của tri thức hay trí năng đối với một tiến trình thông tin riêng biệt về sự kiện nào đó. Trong tiến trình này, suy nghĩ và ký ức được vận dụng (handled) để nhớ lại được (retrieve) hay nhắc lại (rehearse) dữ kiện hoặc thông tin riêng biệt nào đó mà ta đã trải qua kinh nghiệm. Trái lại, khi một người có khả năng làm chủ niệm khởi, nhận thức của họ về thực tại là sự biểu hiện của tuệ trí. Trong đó không có suy nghĩ và sự lập lại ký ức quá khứ; trái lại có sự sáng tạo nhịp nhàng tương xứng (adequate) với đối tượng hay thực tại.

 

2. Sự thành lập NHẬN THỨC

Để lập thành nhận thức, bản chất hay thực chất (essence) đối tượng hoặc thực tại đã được ý nghĩ (idea) nắm bắt (grasped) hay hiểu rõ (apprehended). Nếu không hiểu rõ thực tại hay đối tượng, ý nghĩ không thể nào nhận thức được chúng.

Trên mặt tục đế, thành phần nhận thức gồm suy nghĩ và quá trình hoạt động của tâm về thông tin do các căn tiếp thu ngoại trần (external world). Nó là nét đặc biệt của con người bình thường. Trên mặt chân đế, nó là nét đặc biệt của người đã đi vào dòng Thánh xuyên qua nhận thức không lời. Đây là nhận thức ngoài cảm giác, trong đó không có suy nghĩ.

Đối tượng của nhận thức: Cái được nhận ra đầu tiên và nhận rõ cuối cùng (definitively realized). Thứ nhất là phạm vi thực tại xuất hiện trực tiếp trong sát na đầu tiên. Thứ hai là hình thể của nó. Nó được lập thành trong sự phân biệt của tổng giác (apperception). Cái gì được nhận ra liền trong giác quan thì chỉ một sát na. Cái gì được quan niệm rõ rệt (distinctly) luôn luôn là một chuổi sát na nhận thức trong sự thiết lập trên cơ sở của giác quan nào đó.

Có hai nguồn nhận thức: Một là duy lý (radical) và một sự thực (real). Cái thứ nhất là suy diễn (the sequel), cái thứ hai siêu vượt (a transcendental one).

Cái gì được nhận thức bằng giác quan thì không bao giờ lệ thuộc nhận thức bằng suy luận. Cái gì được nhận thức bằng suy luận không bao giờ lệ thuộc vào nhận thức bằng giác quan.

Tiến trình nhận thức được lập thành do sự kết hợp của Giác quan, Đối tượng, Xúc, Thọ, Tưởng (Tưởng = tri giác + ký ức + mạng lưới khái niệm) và Hành (phản ứng của tâm + tâm sở). Đây là lúc mức độ biện luận (discursive levels) được phát triển lên cao độ. Trong đó vai trò của Não là tổ chức và kiến giải thông tin.

Thọ là nguồn cung cấp thông tin. Nó được truyền bằng lời cảm thọ, chứ không bằng cảm giác. Tiến trình nhận thức kinh nghiệm (cognitive experience) được lập thành từ trong Thọ. Thọ thanh tịnhđiều kiện cần thiết của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát. Thọ không thanh tịnh, khát ái theo đó sẽ khởi lên. Đầu mối của khổ, mê, và luân hồi được được thành lập dựa trên thọ. Vì thế người nào làm chủ được cảm thọ, người đó đạt được nhân chứng. Tức là tánh giác đã trở thành năng lực vững chắc. Thiền tông gọi là “Hằng sống với Tánh giác” hay “Hằng sống với Ông Chủ.”

Tưởng thành lập kinh nghiệm và hình thành chủ thể khách thể nhị nguyên (subjective-objective duality). Nhị nguyên xuất phát từ Tưởng. Mạng lưới khái niệm cũng được triển khai từ nó. Trong tiến trình lập thành nhận thức, Tưởng đóng vai chủ động. Hành và Thức được đặc tính hóa đều do Tưởng.

Từ nơi xúc, tác nhân kích thích truyền đến thọ; thọ khởi lên cái biết đầu tiên về đối tượng. Ngay nơi đây, nhận thức bắt đầu được thành lập nhưng không tinh vi.  Nó ảnh hưởng ít hơn nhận thức trí năng. Thí dụ, nếu chúng ta nói chúng ta cảm thấy nhớ nhà, chúng ta cũng muốn nói rằng chúng ta biết chúng ta đương kinh nghiệm về nổi nhớ nhà như thế nào. Nhưng thực sự cảm thọ này không rõ ràng. Do đó, đưa đến nhận thức cũng không rõ ràng.

Thí dụ khác, khi chúng ta nói: Tôi cảm thấy việc đó sai. Như thế thọ đóng một phần lờ mờ trong tiến trình nhận thức của cá nhân. Bởi vì cảm thấy chưa phải là xác nhận chắc chắn. Nó lờ mờ quá ! Vì vậy, thọ chỉ cho sự tiềm tàng tiến trình lập thành nhận thức. Tuy nhiên, nếu tiến trình lập thành nhận thức này của thọ được duy trì liên tục, năng lực nhận thức của thọ sẽ chuyển sang một hình thái khác. Đó là khả năng trực giác sẽ được phát sinh. Đây là điểm mấu chốt trong tiến trình thực hành Bát Nhã Ba La Mật, ta cần lưu ý.

Tóm lại, tất cả hoạt động nhận thức đều phải dựa vào giác quan, trí năng hay tri thức (knowledge), và thông qua Xúc (contact).  Không có xúc, hoạt động của thọ không được thành lập, và như vậy biểu tượng nhận thức (symbolic cognition) cũng không xảy ra. Trung tâm não bộ cũng không đóng được vai trò lập thành nhận thức sâu sắc hoặc thô sơ. Từ đó chúng ta thấy giác quan không những là phương tiện qua đó con người tiếp xúc ngoại giới mà trong đó con người nhận biết rằng mình đương hiện hữuĐồng thời, giác quan cũng là phương tiện qua đó con người có những kinh nghiệm nhận thức. Từ những kinh nghiệm này, giúp đỡ con người tiến đến cải tạo môi trường chung quanh, cải tạo tâm, quân bình lối sống và cao hơn nữa là phát triển trực giác hay phát triển trí tuệ bát nhãcuối cùngtự tại ra đi khi đã hết duyên với thế gian.

3. Đối tượng NHẬN THỨC

Cái gì hiện hữu là đối tượng. Như vậy, mọi vật trở thành đối tượng vì mọi vật hiện hữu. Nhưng vì hiện tượng thế gian (all things of universe) hiện hữu bằng nhau, chúng sẽ là đối tượng như nhau của tri thức chúng ta. Tất cả sẽ được nhận thứcchúng hiện hữu.

Mô thức liên quan hay sơ đồ được dùng để tổ chức thông tin, và nhận thức thiện xảo (cognitive skills) gồm những qui luật có thể được trình bày bằng biểu tượng trong hình thái:

Nếu cái này có mặt, cái kia có mặt.

Nếu cái này diệt, cái kia diệt.

Hay qua bốn chữ:  Có, Không, Sinh, Diệt.

Chú ý: - Trong lúc đó tuệ trí không lời hiện hữu mà không cần đối tượng.  Nó không luôn luôn liên kết với đối tượng hay thực tại.

Đối tượng nhận thức có 3 loại: có mặt, vắng mặt và siêu vượt (transcendent).

-       Có mặt: - Khi một đối tượng được Phật nói có mặt, nó phải được thử nghiệm bằng tri giác trực tiếp. Thí dụ, như vàng ròng (the purity of gold) được thử bằng lửa.

-       Vắng mặt: - Nếu đối tượng (vàng ròng) không được nhận ra rõ ràng chính xác bằng sự hiểu biết thông thường, nó phải được thử bằng (âm thanh). Đây là thử nghiệm bằng tri giác gián tiếp, tức bằng suy luận hay bằng trí năng sắc bén hoặc bằng sự phân tích của tánh giác. Thí dụ, như vàng ròng được thử bằng sự chạm vào đá. Ta nhận ra âm thanh trong trẽo của nó khác với âm thanh của vàng có pha trộn với kim loại khác. Ta phân biệt được giữa vàng thật và vàng giả.

-       Siêu vượt: - Nhưng nếu đối tượng siêu vượt, không thể thử bằng lửa hay chạm đá, nó phải được thử bằng sự chứng minh khác, không mâu thuẫn, không biện chứng, như hạt ngọc (a jewel) không thể thử bằng lửa và chạm vào đá, vì cả hai thứ này không thích hợp để thiết lập sự ròng  (the purity) của chính vàng. Trong trường hợp này được xem như khi chúng tabài kinh liên hệ đến những chủ đề siêu vượt, ngoài lý luận do Phật thuyết như Không, Như Thật, Chân Như, chúng ta cần phải hiểu siêu vượt là vật tối hậu như nó trong chính nó, nó không những thực mà còn thực sự trong chính nó, dù không cho một khái niệm, vì bằng chính thể (essence) của nó  nó là không khái niệm.     

 

Chú ý: - Chúng ta cần phân biệt giữa hai đối tượng siêu hình và siêu vượt.

  • Đối tượng siêu hình thì không thể nhận biết rõ ràngchắc chắn về nơi chốn, thời gian, và những phần có thể cảm giác được mà những đối tượng đó sở hữu. Thí dụ, các cảnh giới của chư Phật Mười Phương, của Tây Phương Cực Lạc, của các Cõi Trời...
  • Đối tượng siêu vượt thì có thể nhận biết chắc chắnrõ ràng như chúng có mặt trong mỗi phần nhỏ của nhận thức chúng ta, vì chúng là  điều kiện cần của tính có thể của nhận thức kinh nghiệm nói chung, nhưng chính chúng không thể tượng trưng được trong hình ảnh cảm giác, chúng bất khả đắc bằng tri thức. Trái lại, chúng khả đắc bằng trí tuệ Bát Nhã. Như vậy, vật siêu hình là những khái niệm được thành lập, nhưng chúng là huyễn hóa. Siêu vượt, là vật tối hậu như nó trong chính nó, nó không những thực mà còn thực sự trong chính nó, dù không cho một khái niệm, vì bằng chính thực chất (essence) của nó  nó là không khái niệm, ngoài ngôn ngữ biện chứng (dialectic language).

    

4.  ĐẶC TÍNH

  1. Nhận thức luôn luôn liên kết với đối tượng hay thực tại (realities). Không có đối tượng hay thực tại, nhận thức không thể thành lập, dù thực tại đó thuộc phạm vi siêu vượt hay vượt trội  (transcendental aspects) như Chân Như hay Không. Do đó, đặc tính của nhận thứctri giác về thực tạihình dung bên trong về thực tại.
  2. Trên cơ sở này, đặc tính của nhận thứcliên quan mật thiết đến điều ta kinh nghiệm và sự dùng ngôn ngữ hay không dùng ngôn ngữ trong tiến trình biết. Nếu dùng ngôn ngữ để biết, nhận thức đó thuộc lãnh vực trí năng. Nếu dùng thầm lặng biết, nhận thức đó thuộc lãnh vực giác quan tri giác (sense-perception).
  3. Bằng trí năngnhận thức gián tiếp, thông qua suy luận. Đây là suy luận nhận thức (inferential cogniton), cũng được gọi là tự ý thức. Bằng giác quan tri giácnhận thức trực tiếp, thông qua cái biết không lời, thuộc khu vực Kiến giải tổng quát. Được gọi là tự nhận thức hay tự biết-self-awareness, trong đó không có người biết.
  4. Tất cả nhận thức đều là kinh nghiệm. Kinh nghiệm này được lập thành do thông tin hay đối tượng được thu vào từ bộ máy giác quan rồi truyền vào não bộ. Nơi đây, thông tin được lọc, được phân loại, được xếp thứ tự, và được gìn giữ  tại các trung tâm ký ức. Sau đó thông tin hay đối tượng được lập thành từ dấu vết của kinh nghiệm trong tâm. Nhận thức được hình thành từ cơ sở này.

Thí dụ, khi học lái xe, ta phải hiểu rõ cách lái xe như thế nào. Cũng như khi học về Chân như, ta phải hiểu rõ bên ngoài và bên trong Chân như ra sao. Nếu không hiểu rõ, tức ký ức sự kiện riêng lẻ (memory of individual facts/events) chưa được ghi lại thành dấu vết trong tâm.

Vì thế, đặc tính nhận thức không phải là sự xem xét nội tâm, không phải tiếp thu hình ảnh nội tâm, cũng không phải xoay cái biết (awareness) vào bên trong (quen gọi là xoay ánh sáng trí tuệ) để nhìn tâm mà chính là hiểu rõ thực tại bên ngoài hay hiểu rõ chính bên trong thực tại đó như thế nào.

5. CHỨC NĂNG

Chức năng nhận thức có thể được đánh giá (assessed) như sau:

  1. Khả năng: a) học những điều khéo léo cần thiết trong các ngành nghề, kể cả sự học Thiền; b) giải quyết nhiều vấn đề giao tế và tổ chức trong xã hội hay trong tự viện; c) suy nghĩ trừu tượng, d) lý luận, và e) xét đoán tất cả vấn đề trong phạm vi sinh hoạt thế tục hay tâm linh;
  2. Khả năng duy trì và nhớ những sự kiện đã được học hay đã kinh nghiệm;
  3. Khả năng toán học (nhớ công thức) và những hình thái khác của biểu tượng thao tác (symbol manipulation), như đánh võ, đi xe đạp, lái máy bay, lái xe, đánh bóng bàn, thiền hành, thiền tọa v.v...
  4. Kiểm soát những phản ứngthái độ, như các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, tiếp chuyện, lễ nghi, v.v...;
  5. Ngôn ngữ dùng (trong trường hợp nào cho thích hợp với đối tượng và môi trường) và sự lãnh hội các loại ngôn ngữ khác;
  6. Chú ý đến công việc hay đối tượng, kể cả chú ý trống rỗng, nhìn lướt hay nhìn chằm chằm;
  7. Tri giác đối tượng qua những chủ đề hay sự kiện hoặc thực tại;  
  8. Thói quen thực hành theo thiện xảo (praxis). Thí dụ, viết, vẽ, lái xe, nhập định, xuất định, thiền hành, đo điện não đồ...theo kinh nghiệm riêng biệt qua các chiêu thức, khác với mớ lý thuyết mà ta đã học.

Chú ý: - Người mang nhiều thành kiếnchấp trước tuy cũng có nhận thức nhưng nhận thức đó không có chánh trí. Ngoài ra, chứng mất trí (dementia) tuy ý thức chưa mờ, nhưng mất chức năng nhận thức trong vòng vài ba tháng hoặc lâu hơn nữa.

6. BA LOẠI NHẬN THỨC ( hay BA NGUỒN NHẬN THỨC )

 1- Nhận thức bằng giác quan: (Phát triển thân) - Cái gì được nhận thức bằng giác quan thì không bao giờ là nhận thức bằng suy luận.

Thí dụ, khi lửa được nhận thức bằng giác quan thấy (the sense of vision), đó là lửa có mặt trong tầm nhìn của mắt. Lửa được nhận thức trực tiếp từ nơi mắt, không qua suy luận của trí năng. Trong trường hợp này đối với các nhà duy thực (realist), giác quan đóng vai trò nhận thức trực tiếp, họ gọi giác quan này là giác quan tri giác (sense-perception).  Khoa học gọi là vùng Kiến giải Tổng quát.

Đặc tính của giác quan tri giác chỉ nhận thức bằng vật trống rỗng (the bare thing). Trong đó vật chỉ chính nó mà thôi (thing-in-itself). Trong đó không có tất cả những liên quan đến cái khác hay những đặc tính chung của vật. Thí dụ, thấy lửa; biết có lửa. Thấy khói; biết có khói. Nói theo ngôn ngữ Thiền tông, đó là tự tướng của vật được nhận thức bằng tánh thấy.  Ta không thể thêm điều gì nữa về đối tượng.  Trên cơ sở này, với nhận thức bằng giác quan tri giác con người có khả năng đạt được trực giác trí hay tuệ trí.

 2- Nhận thức bằng suy luận (Phát triển tâm) - Cái gì được nhận thức bằng suy luận thì không bao giờ là nhận thức bằng giác quanThí dụ, khi thấy khói, khói là đối tượng trong tầm nhìn của mắt, nhưng qua thấy khói, ta suy luận có lửa.  Lửa được nói lên là nhận thức bằng suy luận chứ không bằng giác quan tri giác.  Vì mắt không thấy lửa mà chỉ thấy khói.  Lửa ngoài tầm nhìn của mắt. Lửa được nhận thức bằng suy luận. Trong suy luận hình ảnh đối tượng được nhận thức gián tiếp, có nghĩa mơ hồ (vaguely) hay trừu tượng (abstractly), bởi vì ta chỉ nhận thức qua dấu hiệu của nó là khói chứ không thấy tận mắt qua dấu hiệu của nó là lửa. Trong trường hợp này, trí năng đóng vai trò suy luận nhận thức.  Do đó, vật chính nó được nhận thức bằng giác quan,  nhưng khi có mặt trí năng thì những đặc tính riêng hay đặc tính chung của vật được lập thành bằng sự tưởng tượng hay tô vẽ của trí năng.  Vật không còn được thể hiện theo tự tướng của nó nữa.

Cho nên, cái gì được nhận thức bằng suy luậnnhận thức của trí năng. Cái gì được nhận thức bằng trí năng thì không bao giờ là nguồn cội của trí tuệ. Trong nhận thức này luôn luôn chứa tư tưởng nhị nguyên (dualistic thoughts); thành kiến, định kiếnquan niệm chủ quan thường trực xuất hiện trong nhận thức suy luận.

 3- Nhận thức ngoài cảm giác(Phát triển tâm linh - Hiểu biết hay biết như thực là loại nhận thức ngoài cảm giác (extra-sensory).  Hiểu biết này được có là do thọ trong sạch hay tâm không dính mắc đối tượng tạo nên. Trong tiến trình cảm thọ này không có thành kiến, định kiếnthiên kiến chủ quan xuất hiện. Người có kinh nghiệm biết thầm lặng -tacit knowing or tacit awareness- hay biết thanh thản -serene awareness- là người có nhận thức ngoài cảm giácNhận thức này là nhận thức không lời (worldless cogniton), nó không dựa vào trí năngdựa vào tánh biết (Hệ NguyênThủy gọi là thức tri, thiền tông gọi là Phật Tánh) cơ sở của nó là vùng Precuneus.

Trong Phật giáo Nguyên Thủy, Nhận thức ngoài cảm giác, nhận thức trong sạch hay nhận thức tâm linh là nền tảng của Vô sanh trí. Trong Phật giáo Phát Triển, nhận thức tâm linh là nền tảng của Trí tuệ Bát Nhã. Thuật ngữ Thiền tông gọi nó là Tánh giác.  Tất cả người thường tuy cũng có năng lực này, nhưng họ không nhận ra nó vì họ chưa được hướng dẫn hay chưa có kinh nghiệm thực sự về nó.  Do đó, năng lực này được xem là năng lực ngoại lệ.  Nhận thức trong sạch chính là năng lực của Thọ thanh tịnh.  Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được Thọ thanh tịnh.  Người còn nhiều khát ái,  nhiều vướng mắc,  không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.  Khi tâm bị ngũ chướng đè nặngnhận thức trong sạch không thể có. Từ đó, trí huệ không làm sao tự phát. Vì vậy, năng lực nhận thức ngoài cảm giác luôn luôn là nền tảng của trí tuệ bát nhã hay trí tuệ tâm linh.  Tức là thông qua giác quan tiếp xúc đối tượng bất chợt trong đầu vị đó lóe lên một kiến giải đặc biệt nào đó mà không có liên quan gì đến thực tại của vị ấy. Nó cũng gọi là trực thức hay trực nhận.

7. TÁC DỤNG

Tất cả hành động có kết quả của con người, bao gồm trong việc đời cũng như việc đạo, đều được đặt trên chánh trí (right knowledge). Thiếu chánh trí, con người không làm sao đạt được kết quả điều mình mong đợi.

Muốn có chánh trí, ta cần có nhận thức đúng về đối tượng cũng như sự việc liên hệ đến hoạt động của ta.  Chính nhận thức đúng giúp ta có quyết tâm hay xét đoán những vấn đề khó khăn được dễ dàng hơn.  Như vậy, nhận thức đúng là nhận thức đưa đến thành côngNhận thức sai lầm thì đưa đến không thành công điều gì hay đưa đến thất bại. Vì nhận thức sai lầm đưa đến lạc lối, lạc đường (astray), nó làm cho chúng ta có những hành động hay việc làm sai lầm.  Do đó mục tiêu nhắm đến hay những điều chúng ta mong đợimong chờ không làm sao đạt được.

Thí dụ: bắt chước quí vị tăng ni tu thiền nhập thất, một người không có vốn liếng pháp học về thiền cũng nhập thất như họ.  Đây là nhận thức sai lầm.  Vì ta không được trang bị pháp học, pháp hành, ta biết gì để ứng dụng khi nhập thất ?

Nguồn của chánh trí là không mâu thuẫn với kinh nghiệm. Vì người có chánh trí là người đã có kinh nghiệm về điều họ đã trải qua.  Họ biết làm như thế sẽ thành công.  Họ không phải là người mò mẫm mà là người đã trải qua kinh nghiệmLời nói của họ chân thực.  Mỗi nhận thức của họ đều không mâu thuẫn với kinh nghiệm, vì nó là nguyên nhân của thành công với hành động có mục đích.  Cho nên, trên phương diện tâm linh, chánh trí đưa đến đạt được mục tiêu, tà trí đưa đến thất bại tâm linhChánh trí không phải là nhận thức cái Tuyệt đối, nhận thức sự vật như thực, hay tri thức thực tại hay không thực tại của ngoại trần.  Thông thường, con người hằng đeo đuổi các đối tượng bên ngoài, giác quan của họ luôn luôn bị dính mắc với chúng.  Họ bị chúng chinh phụcTà trí theo đó xuất hiện trong tâm họ.

Thực tại tuyệt đối chỉ có nhận thức được bằng trí tuệ bát nhã. Trong đó không có luận lý hợp lý theo luận lý học thế gianNhận thức là một nhận thức mới, nhận thức của đối tượng chưa được nhận thức.  Nó là cái nhận thức lúc đầu, cái loé sáng biết đầu tiên khi ánh sáng của nhận thức được rực lên (kindled). Đây là cái nhận thức không lời (wordless cogniton). Nhận thức này được liên tục kéo dài, cái biết (awareness) trở nên vững chắclâu dài (enduring).  Nguồn của chánh trí xuất phát từ mỗi nhận thức. Nguồn của trí tuệ tâm linh được đặt trên sự lâu dài của nhận thức (enduring cognition).  Ký ức, tình thương, sân hận là những đối tượng đã được nhận thức rồi, chúng không phải là nguồn của chánh tríYếu tố nhận thức của tâm chúng ta được giới hạn ngay lúc chúng ta đạt được cái lóe sáng biết đầu tiên về đối tượng trước mặt.  Sau đó, đối tượng được lập thành hình thể, hay hình ảnh.  Nó là sự nhận ra (recogniton) chứ không phải là nhận thức.

Thí dụ:

-       Trong nhận thức sự vật như thực, tác dụng của nhận thức này đưa đến tâm trong sạchthuần nhất. Tâm chỉ và tâm định được đặt trên cơ sở nhận thức sự vật như thực.

-       Trong nhận thức không lời, đưa đến phát triển trực giác. Nó là nền tảng của sự thành tựu trí tuệ Bát Nhã. Trong cái lóe sáng biết đầu tiên, nó đã có mặt.

-       Trong nhận thức đúng đối tượng đưa đến chánh trí. Đó là biết (knowledge) không mâu thuẫn với kinh nghiệm.

Tất cả hành động có kết quả của con người, bao gồm trong việc đời cũng như việc đạo, đều được đặt trên chánh trí (right knowledge). Thiếu chánh trí, con người không làm sao đạt được kết quả điều mình mong đợi.  Người bình thường tuy cũng có nhận thức nhưng không khai triển được tiềm năng giác ngộ thông qua nhận thức đặc biệt của họ. Trái lại, người bắt đầu đi vào dòng Thánh có khả năng khai triển nhận thức không lời của họ để thành tựu trí tuệ Bát NhãNhận thức không lời là cơ sở tạo ra tiềm năng giác ngộ từ nơi vùng Precuneus.

*  Loài thú tuy cũng có nhận thức nhưng chúng sống theo bản năng nên không có nhận thức sâu sắc và rộng lớn bằng loài người. Người sống theo bản năng hay sống theo thói quen cũng không khai triển được nhận thức sâu sắc và rộng lớn. 

Kết luận:

Muốn ứng dụng những chủ đề lớn trong hệ thống kinh Bát Nhã như Không, Chân Như, Huyễn, người thực hành cần được trang bị lý luận và các kỹ thuật thực hành.

Bài Nhận Thức này cốt yếu là nhắm hướng dẫn quí vị thiền sinh hiểu biết rõ ràng về chức năng của nhận thức  để khi đương đầu hay đối diện với tình huống dù khó khăn đến mấy chúng ta cũng có thể mở ra con đường tiến thẳng đến nơi giác ngộgiải thoátMục đích yêu cầu của bài pháp này là nhắm chỉ rõ cách thực hành để làm sao cho tất cả quí vị đều biết hướng dụng công mà ko sợ bị “tẩu hỏa nhập ma”.   Để cuối cùng tất cả quí vị đều có nhận thức biết không lời.  

Nhận Thứcphương tiện cơ bản nền tảng, giúp người thực hành có khả năng tiến sâu vào những lãnh vực trừu tượng (abstract) và siêu vượt (transcendental aspects) của Bát Nhã. Thiếu nắm vững lý luận nhận thức và không thiết lập được nhận thức về đối tượng hay thực tại, thì mục tiêu của Thiền khó có thể thành tựu. Vì thế, mong tất cả quí vị nắm vững bài Nhận Thức này để thực hành các chủ đề lớn trong tu định như Không tầm Không Tứ Định, Chánh Niệm Tỉnh Giác Định, và cuối cùng là định Atakkāvacara -  Phật gọi là xả niệm thanh tịnh.

________________________________

Các BÀI DỌC THÊM Khóa Chuyên Tu Thiền Định tập trung tại LINK:
https://www.tanhkhong.org/p1551/bai-doc-them-khoa-chuyen-tu-thien-dinh

Monday, January 17, 20226:47 PM(View: 61)
Người nào học thiền mà không nắm vững chủ đề nhận thức thì cuộc đời tu thiền của mình kể như buông trôi.
Monday, October 26, 20208:44 PM(View: 2289)
Định có tầm không tứ chúng ta phải dùng niệm nói thầm hai từ Không Nói để chúng ta cắt đứt được sự đối thoại thầm lặng trong não chúng ta.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1304)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1182)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1152)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1984)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1456)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1410)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1871)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1899)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 2120)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
26 Tháng Tám 20232:36 CH(Xem: 2038)
Tuệ ở đây mình muốn nói tới Vipassanā, Tuệ Minh sát. Trong giới hạn bài này, mình bàn tới bài Kinh Niệm Xứ, trong kinh Nikāya. Mặc dù thông thường người ta vẫn nói “Quán Tứ niệm xứ”, trong bài kinh cũng nói “Quán thân” (Kāya-anupassanā) v.v…nhưng hiện nay các vị tôn đức xếp bài kinh Niệm xứ là Vipassanā, là thuộc Tuệ. Cho nên trong bài này, mình cũng tạm nói là Tuệ, tức là dùng tuệ thực hành...
20 Tháng Tám 202310:54 SA(Xem: 2389)
Nói tới Quán, có vài loại Quán hơi khác nhau, trong bài này chỉ xin nói tới loại Anupassanā, nghĩa thông thường là nhìn ngắm hiện tượng thế gian liên tục để nhận ra bản thể hay đặc điểm của hiện tượng thế gian là: vô thường, khổ, vô ngã. Vậy mình cũng có thể hiểu Quán là quan sát hiện tượng thế gian bằng con mắt trí tuệ.
14 Tháng Tám 202311:20 SA(Xem: 1834)
Muốn đạt được kết quả tốt, người thực hành phải hội đủ 5 tiêu chuẩn cần thiết: Tự lực, Nhu cầu, Quyết tâm, Lý thuyết, và Lý luận. Đây là 5 tiêu chuẩn lập thành hệ thống lý luận thực tiễn trong việc thực hành Thiền Phật giáo. Muốn điều chỉnh thân, cải tạo tâm, cân bằng thân-tâm, và phát huy trí tuệ tâm linh có hiệu quả, 5 tiêu chuẩn nói trên không thể tách rời nhau được.
09 Tháng Tám 202312:40 CH(Xem: 2112)
Cốt lõi là cái tinh túy, cái tinh ba. Chớ không phải cái bề ngoài. Nếu so với cái cây, nó không phải là lá cây, cành cây.v.v. mà là cái lõi bên trong của cây. Cái cốt lõi đó phải ngắn gọn, mới gọi là cốt lõi. Mà trong đạo Phật có nhiều cốt lõi lắm. Tại sao vậy?
02 Tháng Tám 20238:44 CH(Xem: 2090)
Chư Tổ Phát Triển thường nói có tới 84 ngàn pháp môn tu, tức là có vô số cổng để bước vào ngôi nhà giác ngộ, hay ngôi nhà giải thoát. Hôm nay chúng ta thử khảo sát cánh cổng của Giới.
31 Tháng Bảy 202310:00 SA(Xem: 1543)
“Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau.
17 Tháng Bảy 20231:44 CH(Xem: 1429)
Dès la clôture de la retraite bouddhique à Berlin, notre groupe de bhikkhunis - Nhu Minh, Nhu Sen et moi-même - a pris le lendemain, 19 mai, l'avion pour Paris. Le 20 mai au matin, la retraite de courte durée y a commencé, durant 3 jours, samedi, dimanche et lundi. Ce stage est également bilingue français-vietnamien avec la présence de quelques francophones qui écoutaient en direct l’enseignement à l’aide des écouteurs personnels. Ainsi la traduction ne gênait personne, et le cours se déroulait normalement comme d'habitude.
12 Tháng Bảy 20234:15 CH(Xem: 1940)
KINH VĂN : Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. bao gồm bản Hán Việt, bản dịch nghĩa, bản Anh ngữ & Pháp ngữ
05 Tháng Bảy 20239:06 SA(Xem: 1109)
Như vậy con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
13 Tháng Sáu 20237:59 CH(Xem: 1609)
Hòa Lan, thành phố đông người trần tục hay vườn hoa thiên nhiên với con người an vui thanh thản?
11 Tháng Sáu 20234:39 CH(Xem: 1361)
Le 4 mai commençait la retraite dans un centre de la ville de Moissac. Cet endroit, situé sur une haute colline tranquille ayant abrité déjà plusieurs retraites bouddhiques, était un ancien couvent carmélite, aujourd’hui transformé comme lieu de villégiature pour touristes. La Sangha de Toulouse a toujours été composée davantage de pratiquants français que vietnamiens, d’où la nécessité d’organiser la retraite en bilingue. Tout le monde doit rester sur place, car c'est loin de Toulouse.
05 Tháng Sáu 20236:34 CH(Xem: 1655)
Trường Bộ Kinh Digha Nikaya 16. Kinh ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN (Mahàparinibbàna sutta)
30 Tháng Năm 20234:42 CH(Xem: 1156)
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
29 Tháng Năm 20233:10 CH(Xem: 1232)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1305)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1620)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1200)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
69,256