Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨCTHỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) Luận giảng số 7
Bài đọc thêm số 3
Bệnh Tâm Lý
UẤT CẢM: Stress
Đại cương
Trong cuộc sống hằng ngày, con người gồm mọi trình độvăn hóa, kiến thức, tâm đời hay tâm đạo, mọi thành phần nghề nghiệp (từ nguyên thủquốc gia đến người cùng đinh, từ cư sĩ đến tu sĩ)… thường xuyên đương đầu các tình huống khó khăn, cay đắng, bi thương, đau đớn, kinh hoàng hoặc đứng trước những môi trường đe dọanghiêm trọng đến mạng sống, danh dự, sự nghiệp, tài sản và địa vị, hay chạm trán những bất hạnh, những hậu quảthảm khốc khác nhau, hoặc những đe dọađời sống vật chất như cơm ăn, nhà ở, sức khỏe, và sự sống còn, hay có những vấn đề cần tập trung tư tưởng để tìm ra đáp án, nên tâm trícon người lúc nào cũng bị căng thẳng. Uất cảm được hình thành trên những thách đố này. Lý do là con người phải vận dụng tất cả khả năng của trí tuệ, suy nghĩ tính toán, mưu lược, và phương tiện để đối phó những áp lực hay để giải quyết những tình huống nghiêm trọng đó.
Người sáng tạothuật ngữ “stress”
Hans Selye (1907-1982), nhà sinh lý học người Canada, năm 1935, tại Đại học McGill ở Montreal, ông là người đầu tiên khám phá ra ảnh hưởng của uất cảm (stress) đưa đến bệnh loét đường ruột (gastrintestinal ulcers). Qua những thí nghiệm bằng cách chích những chất hormones khác nhau vào cơ thể loài chuột, ông thấy rằng vỏ thượng thận các loài chuột bị căng lên, tuyến ức (thymus) và những tuyến bạch huyết bào (lymph) co lại, làm cho hệ thống miễn dịch không hoạt độngbình thường, đưa đến loét bao tử, tá tràng bị viêm, và loét đường ruột. Tháng 7 năm 1936, ông ấn hànhbài kinh nghiệm này với tựa đề: A Syndrome Produced by Diverse Nocuous Agents. (“Hội chứng được làm ra do những tác nhân độc khác nhau.”)
Năm 1956, ông ấn hành bản luận về Stress lấy tên là The Stress of Life.
Ngày nay, uất cảm được xem như là tác nhân đưa đến nhiều loại loét, như loét bao tử.
Sân hận làm tiết ra nhiều chất acids từ bao tử, kết quả cũng đưa đến loét bao tử hay loét tá tràng (duodenal ulcer). (Tá tràng là phần đầu của ruột non, phần cuối của bao tử, có hình chữ C, nằm bao phần đầu của tuyến tụy).
Tính phổ biến
Hiện nay, uất cảm đã trở thành khái niệm phổ thông trong dân chúng. Nó là tác nhân gây ra bệnh cho tâm và thân. Nó được giải thíchrộng rãi trong sinh hoạt bệnh tâm lý, tạo ra những hậu quả xấu khác nhau cho cơ thể.
Trong lãnh vực khoa học, uất cảm được dùng như là điềm báo trước của bệnh tâm sinh lý (Psychophysiological illnesses).
Thí dụ, một người thường có những phản ứnglo âu, sợ hãi, đau buồn, chán nản dai dẳng và ngấm ngầm do điều kiện bên ngoàitác động vào tâm thức qua thấy, nghe hiểu biết đối tượng, người này có khả năng bị bệnh uất cảm.
Nó cũng là thái độ không thể giải thích của những người thường mang chứng bệnh ảo giác do sự rối loạnthần kinh tạo ra như sợ hãi một nhân vật nào đó mà chỉ có người đó nhận ra, còn người khác thì không biết. Hoặc bất thần có những hung tin đưa đến tác động mạnh vào khu Dưới Đồi, tạo ra trạng tháisuy sụpthần kinhđột biến làm tác động thẳng đến giao cảm thần kinh (GCTK) đưa đến giảm đột ngột máu trở về tim làm cho con người ngất lịm, mặt xanh, bất tỉnh.
Đây là chứng bệnh thời đại. Hiện nay nó được phát triển mạnh nhất tại các quốc gia đã phát triển và các quốc gia đang trên đường phát triển. Lý do là hiện nay con ngườithường trực phải đối đầu với những nhu cầu sống còn vượt ngoài mức qui định bình thường như những thế kỷ về trước. Lo âu, sợ hãi, suy nghĩ tính toán thường xuyên ngấm ngầm hoạt động trong tâm.
Con người phải trang trải nhiều thứ tiền hơn những cuộc sống của vài ba thế kỷ trước đây. Thân và tâm thường trực bị căng thẳng. Làm việc tăng mức bình thường. Đua tranh, đua sức, đua đòì, và đua chen không lúc nào ngưng. Cuộc sống đã phức tạp, tâm lại càng phức tạp hơn. Vì tâm phải thường xuyênđối phó, đương đầu trước những tình huống hoặc nghiêm trọng hay khẩn trương. Từ đó những hệ thốnghoạt động bên trong cơ thể phải gia tăng mà con người không biết cách phục hồisinh lực, thư giãn thần kinh hay điều hướng tâm đến chỗ an tịnh trong đôi lúc.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng bị quây cuồng hay thu hút theo những tiến bộ đó. Nếu không biết chủ động trong cuộc sống—sống biết đủ—con người khó tránh những tình trạng tạo ra bệnh “stress”. Chúng tôi tạm dịch là “Uất Cảm.”)
Tác Nhân Gây Uất Cảm (stressors)
Uất cảm không tự nhiên mà có. Nó phải do các điều kiện hay trạng thái bên ngoài tác động vào nội tâm thông qua các căn mới tạo ra uất cảm.
Trong sinh hoạt của con người, có bốn loại tác nhân gây uất cảm chính yếu:
1. Tác nhân uất cảm vật lý
Đây là những trường hợp:
thay đổi thời tiết (hoặc quá nóng hay quá lạnh),
thảm cảnh của tai nạnlưu thông bằng các đường hàng không, đường bộ, tàu hỏa, đường thủy,
nơi ồn ào náo nhiệt của thành phố, khu phố hay dân cư chen chúc,
trại tập trung cải tạo,
ô nhiễm không khí,
vùng nguy hiễm,
vùng có chiến tranh, và thảm họa chiến tranh.
2. Tác nhân uất cảm sinh lý
Đây là những trường hợp mang những mặc cảm:
có thân không cân bằng, không bình thường như mọi người, có thân tàn tạ (deterioration), suy nhược, sức khỏethể chất không bình thường,
bệnh kinh niên không chữa trị được,
hằng ngàysoi gương để kiểm tra sắc mặt, tóc tai, hình dáng cơ thể, và cách ăn mặc áo quần của mọi lứa tuổi cũng là nền tảng cơ bản đưa đến uất cảm.
Trong lúc đó, có một tác nhân gây uất cảm mà ít ai nhận ra, đó là sự tỉnh táoquá mức (excessive arousal). Tỉnh táo, thực ra là vai trò quan trọng của tâm. Nó góp phần trong việc giải quyết nhiều vấn đềnghiêm trọng cũng như bình thường. Không có sự tỉnh táo, chúng ta không để ý đến điều gì xảy ra chung quanh. Chúng ta cũng không chú trọng đến các chi tiết. Tri giác, ký ức, chú ý, và xúc cảm, nói chung đều cần đến sự tỉnh táo. Nhưng nếu tập trung sự tỉnh táo vào một chủ đề quá nhiều, thần kinh trở nên căng thẳng, lo âu bắt đầu xuất hiện. Và như thế, uất cảm sẽ xảy ra.
3. Tác nhân uất cảm xã hội
Đây là những trường hợp:
mất việc làm hay thất nghiệp,
cái chết của chồng hay vợ hay mất người bạn đời,
mất người thân thương trong gia đình hay mất người bạn thân nhất trong đời;
uy tíndanh dự bị chà đạp;
mất điạ vị cầm quyền hay địa vị cầm quyền bị lung lay;
thay đổi công việc làm ăn,
tiền nhà cao,
nợ quá nhiều;
vấn đềluyến ái khó khăn,
con cái rời khỏi gia đình,
thay đổi điều kiện sinh sống,
kỷ niệm hãi hùng hay đau thương trong thời gian chiến tranh hoặc vượt biên, vượt biển,
ly dị và ly thân,
tù tội,
những kỷ niệm chấn thương nội tâm,
nhiều vấn đềphức tạp với chủ hay cơ quan làm việc,
sống lang thang, bơ vơ, và nghèo đói,
yêu cầu, nhu cầu, cơ hội, mục đích không xứng hợp (incompatible) với ý muốn hay nguyện vọng...
Những tác nhân nói trên đưa đến:
xung độtnội tâm không bao giờ ngưng, suy sụptinh thần đột ngột, dồn nén hay ức chế tình cảm, bị áp lực từ nhiều phía, bị chấn thương nội tâm, khủng hoảng tinh thần, thất vọng, lo âu.
Lo âu là tình cảm xúc động, gần với sợ hãi. Nhưng lo âu khác với sợ hãi. Vì lo âu là không căn cứ và không mục đích, còn sợ hãi là có căn cứ và có mục đích. Lo âu rất mơ hồ. Đó là chờ đợi mối nguy hiễm không rõ ràng, không lường trước được trong một tâm trạng đau khổ. Lo âu đưa đến căng thẳngthần kinh. Lo âuthường xuyên đưa đến mãn tính. Nó là mầm mống đưa đến uất cảm.
4. Tác nhân uất cảm tâm lý
Đây là những trường hợp:
xúc cảm mạnh và kéo dài, gồm hối hận (do gây điều tội lỗinghiêm trọng),
ám ảnh những kỷ niệm (haunting memories) và ác mộng (nightmares),
sân hận,
sợ hãi,
chán nản,
chán ngánnghiêm trọng,
tuổi giàsợ chết,
kể cả vui quá độ cũng đưa đến uất cảm.
Mặt khác có những mặc cảmthua kém trên các phương diện sống trong xã hội như nghèo, thiếu thốn, thiếu thông minh, tội lỗi, tuổi giàcô đơn (không có con cháu phụng dưỡng, không có xã hội giúp đỡ) cũng đưa đến uất cảm kinh niên.
Ngoài ra, có những loại cạnh tranh, ganh đua để đạt được điều gì trọng đại trong cuộc sống; bị ép buộc hay bức bách làm điều gì thường xuyên. Cá nhân những người này thường xuyên sống dưới những áp lực, hối hả, khuynh hướng hoạt độngtâm trícăng thẳngliên tục.
Tác động và tác dụng
Để đáp ứngtác nhânkích thích từ bên ngoài giác quan như sân hận, đau buồn (the grief), chán nản dây dưa hay do tưởng tượng những mối lo âu, sợ hãi ray rứt, uất cảm (stress) được tạo ra. Nó được hình thành từ tiến trình hoạt động của não bộ qua các cơ chế vỏ não, duới đồi, hệ thống tuyến nội tiết, và giao cảm thần kinh.
Kết quả của uất cảm đưa đến làm thoát ra nội tiết tố “cortisol” từ Vỏ thượng thận và “epinephrine” từ Ruột thượng thận. Những nội tiết tố này làm thay đổi nhịp tim, áp suất máu, và biến đổi hóa học trong cơ thể (metabolism).
Cortisol là một trong những hormones được tiết ra từ tuyến thượng thận thông qua cường độ hoạt động của uất cảm. Số lượng vừa phải của cortisol thì không gây tai hại cơ thể, trái lại còn làm lợi cho cơ thể vì nó tăng cườnghệ thống miễn dịch. Tuy nhiên, khi nó được sản xuất quá mức, kéo dài từ ngày này qua ngày khác và trở thànhkinh niên, nó là chất độc cho não. Vì khi đi vào máu lên đến não, nó bó chặt lại những thụ thể (receptors) trong tế bào chất hay bào tương (cytoplasma) của nhiều tế bào não (neurons). Nó làm chết tế bào não và làm tổn thương hằng triệu tế bào não tại vùng ký ức dài hạn (Hippocampus), đưa đến mất trí nhớ. Nguyên nhân tạo ra bệnh sa súttrí tuệ trước tuổi già (bệnh Alzheimer), là do kết quả của chất độc cortisol được tăng nhiều trên vỏ não. Nó làm vỏ não của 3 vùng thùy đỉnh, thùy thái dương, và thùy chẩm bị teo lại. (Đây là vùng kiến giải tổng quát). Ngoài ra còn những nguyên nhân khác như giảm lưu lượng máu cho não, đưa đến tế bào não thiếu hụt dưỡng khí.
Khi chúng tachịu đựng uất cảm đều đặn, uất cảm trở thànhkinh niên. Lúc bấy giờ não bị hư hại.
Epinephrine là chất làm tăng nhịp đập của tim, tăng độ đường trong máu, mạch máu bị thắt lại (tăng huyết áp, nhịp tim đập nhanh hơn), và máu bị lệch hướng đến não, tim và cơ xương.
Cùng lúc đó giao cảm thần kinh bị tác động. Nhịp tim tăng lên, thở nhanh, đường máu tăng, mạch máu ngoại biên thắt lại, tiêu hóa bị chận lại, và những tác dụng khác nhau xảy ra.
Uất cảm kinh niên đưa đến cao máu. Cao máu làm cho tim, mạch máu và thận bị hỏng. (Máu 140/90 được xem là cao).
Loại người này dễ bị mắc bệnh tim mạch (cardiovascular disease), tim có thể bị tổn thương; cuối cùng khó tránh bị chết vì đứng tim bất ngờ.
Bệnh tâm sinh lý gồm cao máu, loét, và đau đầu, không phải gây ra bởi rối loạnthể chất (physical). Sự oán giận (resentment), sân hận, lo âukích thích acid tiêu hóa làm cho nhiều phần lớp vách trong bao tử hay ruột non bị loét.
Nỗi đau buồn (grief), chán nản (depression) theo sau cái chết của người bạn đời làm giảm sự phòng vệ miễn dịch và tăng sự nguy hiểm bị stroke hay heart attack.
Stress làm giảm hệ thống miễn nhiễm.
Xúc cảm và trầm cảm được kết nối với ung thư.
Định Nghĩa
Trên mặt trạng thái,
Uất cảm được định nghĩa là sự biểu lộtrạng tháitâm lýbiến động, căng thẳng, không quân bình hay không xứng hợp giữa tri giác và nhận thức về những yêu cầu (demands), nhu cầu (needs), hay khả năng đối phó trước những tình hình khẩn trương đang xảy ra.
Uất cảm cũng được hiểu là trạng tháiphản ứng xúc cảm và căng thẳngtâm lý cao độ, hay tâm bị áp lực từ nhiều phía, hoặc con người tự dồn nén tình cảm quá mức vào một chủ đề, hay một chấn thương nội tâm gợi lại trong ký ức. Cường độ căng thẳngthần kinh thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ phản ứng của trí năng hay của nhận thức, hoặc của cách quan niệm riêng của cá nhân.
Thí dụ 1
Chứng kiến một sự kiện làm tăng lên sự sợ hãi hay khiếp đãm, tạo ra những tình trạnglo âu, mất ngủ, buồn chán hay chán ngánnghiêm trọng, như cái chết của người thân thương nhất, sự ly dị hay ly thân, sự sanh con, sự bơ vơ nơi xứ lạ quê người, sống trong những cảnh kinh hoàng chết chóc trong thời kỳ chiến tranh...
Thí dụ 2
Thường xuyên vận dụng ý thức hay trí năng để tập trung tư tưởng vào chủ đềdụng công hay tu tập, hoặc tăng cườngsử dụngtỉnh thứcý thức hay tỉnh táoquá mức khi thực hành thiền...
Trên mặt tác dụng,
Uất cảm được xem là một thứ bệnh tâm lý, có khả năng đưa đến các loại loét nội tạng như loét bao tử, loét đường ruột, và cao hơn nữa là ung thư. Những tác nhân gây uất cảm nói trên tác động vào não bộ, đặc biệt là khu Dưới Đồi (Hypothalamus). Theo sau đó những phản ứng sinh học bên trong cơ thể được tạo ra, như các chất nước hóa học trong tuyến thượng thận và hệ giao cảm thần kinh. Cuối cùng đưa đến bệnh nội tạng và hư hại não. Chính vì thế, uất cảm được xem là tác nhân gây bệnh cho tâm và thân. Vì vậy, uất cảm cũng được định nghĩa là một loại “bệnh tâm sinh lý Psychophysiology illness”).
Với thân, con người bị các bệnh loét bao tử, loét đường ruột, huyết áp cao, bệnh tim mạch, động mạch vành tim, nhồi máu cơ tim, đứng tim, tai biến mạch máu não, bệnh liệt nửa chi cơ thể, tiểu đường, ung thư, hư hại não, v.v...
Với tâm đưa đến bệnh trầm cảm, bệnh mất trí nhớ, v.v...
Tóm lại, uất cảm là những trạng tháiphản ứngphức tạp của tâm trong tình trạngcăng thẳngdai dẳng về những chủ đề hay tình huống hoặc môi trường mà tất cả con người trẻ hay già, tại gia hay xuất giacần phảigiải quyết hay đối phó hoặc đương đầu. Trong tiến trình đối phó, thần kinhcăng thẳng, các sắc thái tâm được biểu lộ theo từng dữ kiệnđối phó. Cùng lúc đó, các chất nước hóa học bên trong cơ thể được tiết ra để đáp ứng theo sự phản ứng của tâm.
Những áp lựctâm lý này tạo thành bệnh tâm thể.
Đối phó với uất cảm
Trong thiền, đối phó uất cảm có nhiều cách:
1. Thư giãn tâm hay thư giãn niệm là một phần quan trọng của hồi đáp sinh học (Biofeedback). Nó là thuốc giải độc uất cảm. Tọa thiền, thư giãn: tăng cườnghệ thống miễn nhiễm, giảm huyết áp, giảm nhịp tim và tiêu thụ dưỡng khí.
2. Thở hai thì: thầm nhận biếthít vào, thầm nhận biếtthở ra.
3. Không định danh đối tượng.
4. Không dán nhãn đối tượng.
5. Chú ý trống rỗng (bare attention).
6. Thấy, nghe, xúc chạm, biết như thật.
7. Thể nhậpchân như hay an trú trong tâm Tathā.
8. Thể nhậpKhông Định.
Hội chứng uất cảm
Hội chứng uất cảm được chia làm 3 giai đoạn: (1) giai đoạn báo động, (2) giai đoạn đề kháng, (3) giai đoạn kiệt quệ.
1.Phản ứng uất cảm đầu tiên là phản ứngbáo động. Trước hết, nó tác động khu Dưới Đồi (Hypothalamus) làm tiết ra CRH (Corticotropin-realeasing hormones). CRH tác động vào 2 hệ thống:
Một là thùy trước Tuyến Yên (Pituitary) làm tiết ra ACTH (adrenocorticotropic hormone). ACTH theo máu tác động vào Vỏ Thượng thận (Adrenal Cortex) làm tiết ra chất tăng độ đường máu của thượng thận là “Glucocorticoid Hormones.”
Hai là tác động vào Hệ Thần kinh tự quản là Hệ Giao cảm thần kinh.
Khi GCTK bị tác động, nó làm cho nhịp tim tăng lên, thở nhanh, đường máu tăng, mạch máu ngoại biên thắt lại, tiêu hóa bị chận lại, và những tác dụng khác nhau xảy ra. Đó là tín hiệu thần kinh từ GCTK tác động vào Tuyến thượng thận (Ruột thượng thận). Tuyến này liền tiết ra chất Epinephrine (adrenaline) và Norepinephrine (moradrenaline). Sự phản ứngbáo động này chỉ kéo dài vài phút, tùy theotác nhân gây uất cảm (stressor) kéo dài bao lâu. Ít nhất là kéo dài vài giờ. Khi uất cảm chấm dứt, đối giao cảm thần kinh liền thay thế, và cơ thể bắt đầu được tái xây dựngtiềm lực của nó.
2.Tuy nhiên, không phải tất cả uất cảm chấm dứt ở đây. Nếu uất cảm tiếp tục, ta vào giai đoạn thứ hai. Đây là giai đoạn đề kháng. Trong giai đoạn này cơ thể con người bắt đầu sử dụnghệ thống dưới đồi - tuyến yên và vỏ thượng thận.
Trong giai đoạn đề kháng, trong sự đáp ứng của khu Dưới Đồi, phần trước của tuyến yên bắt đầu tiết ra nội tiết tố ACTH (adrenocorticotrophic hormone). ACTH hoạt động trên vỏ tuyến thượng thận, làm cho tuyến thượng thận bắt đầu tiết ra nội tiết tố Glucocorticoid, hydrocorticosone, corticosterone, và cortisol. Những chất nội tiết tố này có nhiều chức năng khác nhau. Chúng giúp cho hệ thần kinh tự quản duy trì epinephrine và norepinephrine. Chúng kích thích sự cải biến chất béo và chất đạm thành đường, và chúng xúc tiến việc cất giữ glycogen trong gan, nhờ đó cơ thể được cung cấp thêm năng lượng.
3. Giai đoạn kiệt quệ(exhaustion). Giai đoạn này chỉ phát triển khi stress lên nghiêm trọngcực điểm. Nếu uất cảm tiếp tục tăng lên hết mức, nội tiết tố cortisol được tiết ra. Cơ thể không thể kéo dài sự đối phó với tác nhân gây uất cảm và cái chết có thể xảy ra sau đó.
Cường độ xúc cảm mạnh mẽ. Hội chứng vật lý: cơ bắp căng lên, nhịp thở nhanh hơn, thần kinh bị kích động (có cảm giác ngứa như có kiến bò (tingle), bao tử nổi sóng (churns), đêm đến ngủ không được. Liệt nửa chi cơ thể. Đó là bệnh viêm tĩnh mạch (phlebitis) làm tạo ra máu nghẽn (blood clots). Nếu máu nghẽn này đến tim, bệnh nhân chết.
Những yếu tốtâm lý và vật lý tương tác một cách phức tạp để hình thành (to shape) sức khỏevật lý (physical health).
Cả hai chất Epinephrine và Norepinephrine đều kích thích tim và thắt mạch máu ở da và nội tạng. Norepinephrine tác dụng co mạch và tăng huyết áp cao hơn. Epinephrine do ruột thượng thận tiết ra làm tim đập nhanh, làm co mạch, nhưng giãn động mạch vành và động mạch cơ xương, tăng huyết áp và đường máu, ức chế cơ trơn phế quản, ruột, và giãn đồng tử.
Áp lựcxã hộiliên quan đếnvai trò của con người trong xã hộithúc đẩy họ gia tăng mức hoạt độngtâm trí, cuối cùng đưa đến bệnh động mạch vành tim (coronary heart disease).
Uất cảm làm tổn hạisức khỏe. Nó kết nối với bệnh suyển (asthma), viêm khớp (arthritis), ung thư, tiểu đường (diabetes), bệnh tim và rối loạn tâm thể (psychosomatic disorders) đưa đến loét (ulcers).
Nó làm ảnh hưởng đến nhiều chương trình, kế hoạch, và sự sáng tạo.
Xơ cứng động mạch. Đây là động mạch chủ bị đóng lại bởi sự tích lũy những phiến lipids (cholesterols). Nếu động mạch dẫn đến tim bị tắc nghẽn (become clogged), con người có thể kinh nghiệm đau (angina) và nhồi máu cơ tim (heart attack).
Uất cảm được biết đóng vai trò trong xơ cứng động mạch. Trong hệ thống giao cảm thần kinh - tuyến thượng thận làm cho dễ dàng sự thoát ra epinephrine và norepinephrine.
Cả hai chất này nếu tăng lên nhiều chúng sẽ tạo thành lipids (chất béo) đóng vào thành mạch máu.
Uất cảm vì mất người thân thương đưa đến rối loạnchức nănghệ thống tuyến nội tiết. Kết quả dễ đưa đến bệnh động mạch vành tim (coronary heart disease).
Vai trò của DƯỚI ĐỒI đối với Uất Cảm
Dưới Đồi nằm dưới Đồi Thị (Thalamus) trong nó có những trung tâmquản lý ăn, uống, thái độtình dục, ngủ và kiểm soát nhiệt độ. Nó cũng can thiệp vào những thái độ xúc cảm, như giận dữ (rage), kinh hãi (terror), và khoái lạc (pleasure).
Trong những lần uất cảm, Dưới Đồi xuất hiện để đóng vai tròtrung tâm điều hợp (coordinating) và hợp nhất (integrating) những hoạt động của hệ thần kinh.
1. Hệ thống Giao cảm thần kinh - tuyến thượng thận (trong đó, ruột tuyến thượng thận tiết ra epinephrine và norepinephrine) thì quan trọng đặc biệt khi cơ thể chiến đấu hay tháo chạy (fighting or fleeing) hoặc dấn thân vào hoạt độngđối phó. Đáp ứng tim mạch, thở, tuyến nội tiết, và những đáp ứng khác để cho cơ thể đủ năng lượngđối phó với vấn đề.
2. Hệ thống Dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng thận đóng vai trò khi cơ thể phải giáp mặt với uất cảm kinh niên hay không có cách gì đối phó với tác nhân gây uất cảm. Thí dụ, hằng ngày trong sở làm ta giáp mặt với người chủ khó tính, ta phải âm thầm chịu đựng những lời nói huyênh hoang khó chịu. Những lời nói huyênh hoang khó chịu này là tác nhân gây uất cảm. Trí năng sẽ có mặt để đối phó với thái độ đó của ông chủ. Lúc bấy giờ trong não, Dưới Đồi kích thích tuyến yên để tiết ra ACTH vào dòng máu, rồi trở lạikích thích vỏ thượng thận để tiết ra “steroid hormones” là nội tiết tố có nhiều chất béo. Cơ thể tăng lên sự chú ý vào thái độ của ông chủ, và giao cảm thần kinh hoạt hóa. Tốc độ tim giảm và vận động bị ức chế.
Các giai đoạn Uất Cảm
Năm 1976, nhà sinh lý học người Canada, Hans Selye cho biết rằng uất cảm xảy ra và kéo dài trong ba giai đoạn. Ông gọi là Hội Chứng Thích Nghi Tổng Quát “General Adaptation Syndrome” 1) Phản ứngbáo động (Alarm reaction), 2) Đối kháng (Resistence), và 3) Kiệt quệ (Exhaustion).
Giai đoạn 1: Phản ứngBáo động
Đây là giai đoạn đáp ứng uất cảm. Uất cảm bắt đầu khi nhận ra rằng có sự nguy hiểm hay phải chiến đấu. Xúc cảm dâng cao tác độnghệ thống giao cảm thần kinh - ruột thượng thận. “Báo động đỏ” được bật lên. Chúng tanhạy cảm và báo động. Thở nhanh, tim đập nhanh, cơ bắp căng, những sự thay đổi thể lực xảy ra. Những sự thay đổi này giúp chúng ta động viên những nguồn đối đầu để lấy lại sự tự kiểm soát. Tín hiệu thần kinh (Nerve signals) chớp lên qua hệ thống giao cảm thần kinh, và epinephrine liền tiết ra chảy vào dòng máu. Liền tức khắc, tốc độ tim và thở tăng lên, áp suất máu lên cao, máu từ da, tiêu hóa, và hệ thống bài tiết ngưng lại. Ở giai đoạn này, chúng ta phải dùng những chiến thuật đối dầu phòng vệ. Nếu không giảm uất cảm, cuối cùngchúng ta vào giai đoạn hai của sự thích nghi (adaptation).
Giai đoạn 2: Đối kháng
Những triệu chứngthể lực và những dấu hiệu khác của sự căng thẳngxuất hiện như chúng ta phải chiến đấu chống lại sự gia tăngrối loạntâm lý. Nếu những cố gắng của chúng tathành công trong việc giảm uất cảm, chúng tatrở lạitrạng tháibình thường hơn. Nhưng nếu uất cảm tăng quá độ hay kéo dài, chúng ta có thể trở nên tuyệt vọng (desperation). Nếu nó xuất hiện, những nguồn thể lực và xúc cảm kiệt quệ (depleted) và những dấu hiệu mòn mỏi hiện rõ hơn.
Giai đoạn 3: Kiệt quệ
Nếu uất cảm kéo dài quá lâu, con người có thể đến giai đoạn thứ ba là giai đoạn kiệt sức (exhaustion). Đây là giai đoạn cuối cùng. Tuyến yên và tuyến thượng thận hoạt động đến mức giới hạn của chúng và chúng mất hết năng lực để hoạt động theo chức năng của chúng. Cuối cùng, cơ thể kiệt quệ, những phản ứngbáo động trở nên vô hiệu. Do đó, uất cảm kinh niên, luôn luôn đưa đến chết.
Não bộ và thân là thực thểvật lý. Tâm gồm tinh thần và tình cảm. Cả ba đều bị chi phối bởi 4 qui luật: vô thường, xung đột, không thực chất, và duyên sinh hay tương quan nhân quả.
Chỉ có loài người mới có thương, ghét, thất vọng hay mê say, lạc quan hay bi quan, tình cảm và lý trí. Chức năng nào biểu lộ nhừng sắc thái của tâm? Chỉ có não bộ mà cơ bản trong đó là tế bào não.
Tâm và thân luôn luôn hoạt động tương tác với nhau. Tâm ảnh hưởng đến thân. Thân ảnh hưởng đến tâm.
Với Thiền, thân và tâm phải hài hòa cùng nhau. Muốn thế, người thực hành thiền phải theo những nguyên lý thích ứng do Thiền đề ra.
Hệ ThốngThần KinhNgoại Biên trong xúc cảm
Thụ thể giác quan (sensory receptors) trong ngũ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) cung cấp thông tin về ngoại trần. Thụ thể đóng ở cơ xương (the skeletal muscles) và các khớp (synapses) cung cấp thông tin về tư thế, vị trí, hướng (orientation), và động tác của cơ thể. Thụ thể ở cơ trơn (the smooth muscles) và những cơ quan bên trong (the internal organs) cung cấphồi đáp về điều gì xảy ra chính bên trong cơ thể: những cảm giác đói, khát, buồn nôn (nausea) hay những cảm giác nội tạng. Tất cả thông tin được truyền đến thần kinh Trung Ương (CNS) qua nhiều ngã hướng tâm (afferent pathways).
Trái lại, những xung lực thần kinh ly tâm (efferent) mang thông tin từ Thần kinh Trung ương đến thần kinhngoại biên (có nghĩa, chúng cho phép não có những hiệu ứng (effects) trên cơ bắp, cơ quan, và các tuyến). Những đường đi xuống này thông thường gọi là ly tâm, hay đường vận động.
Não bộ có thể dùng hai loại thông tin bên trong, như thông tin của thân và của nội tạng, trong việc xét đoán xúc cảm (emotional judgments). Thụ thể trong cơ xương và khớp (như ở mặt, tay, hay chân) phát ra những kích thích truyền vào não bởi dây thần kinh hướng tâm của cơ thể. Thụ thể trong cơ trơn và cơ quan bên trong (như bao tử và ruột) phát ra kích thích, truyền vào não qua dây thần kinh hướng tâm nội tạng. Bằng những phương tiện này não bộ tiếp nhận thông tin về những vận động cơ mặt, hoạt động bên trong nội tạng, tư thế của các chi, kiệt sức bên trong (internal distress), v.v... Từ đó, biểu lộ ra: lông mày nhíu lại, răng cắn chặt, bao tử đau, cổ lạnh.
Hệ thần kinhngoại biên chia làm hai phần chính: hệ thần kinh tự quản và hệ thần kinh cơ thể (the somatic nervous system). Hệ thần kinh cơ thể gồm những tế bào não đi đến và từ những cơ quancảm giác và vận động (như cơ xương). Hệ thần kinh tự quản gồm những tế bào não điều hòa cơ trơn, cơ tim, và các tuyến. Tự quản có nghĩa “tự quản lý” (self-governing). Hệ thần kinh tự quản tác động hay kích thích (innervates) hệ thống tim mạch, hệ thống thở, hệ thốngtiêu hóa, và hệ thống tuyến nội tiết, gồm tuyến thượng thận, tinh hoàn (the testes), và buồng trứng (ovaries). Hệ thần kinh tự quản đặc biệt quan trọng trong sự biểu lộ xúc cảm.
Nó được gọi là tự quản vì những chức năng của nó phần lớn là ngoài sự kiểm soát có ý thức. Trong khi chúng ta có thể bằng ý muốn để kiểm soát cơ xương, nhưng ý chíkiểm soát cơ trơn và cơ tim thì khó đạt được. Phần này do thần kinh tự quản phụ trách.
Tác nhân gây Uất Cảm
Tùy theo phong tục tập quán và văn hóa, (stressors) có thể xảy ra trong những trường hợp như sau:
1. Thất nghiệp. Đây là nguồn chính yếu.
2. Cái chết của người vợ hoặc chồng.
3. Mất đi người thân thương (Bereavement).
4. Ly dị và Ly thân.
5. Lo âu.
6. Sống bơ vơ.
7. Tù tội.
8. Chết của người thân thương trong gia đình.
9. Hôn nhân hay tình yêu ngang trái.
10. Bệnh kinh niên.
11. Bị ngược đãi.
12. Không đạt được điều mong đợi.
13. Chiến đấu trong chiến tranh.
14. Chấn thương nội tâm (Traumatic).
15. Tai ươngthiên nhiên (Natural catastrophes): bão lụt, động đất, hỏa hoạn, máy bay rơi.
Tóm kết
Uất cảm là một chứng bệnh thời đại của thế kỷ 20 và hiện nay trên thế giới. Dù sống trong những quốc gia chưa phát triển hay trong những quốc giatiên tiến, con người vẫn phải đối diện với nhiều hoàn cảnh khó khăn trong đời sống hàng ngày. Nếu chúng ta không biết điều hòa thân và tâm của mình để thích nghi với gia đình, nơi làm việc, xã hội, và thiên nhiên, thì điều đó dễ dẫn chúng ta đến những hậu quảnghiêm trọng: bị bệnh uất cảm, và tiếp theo là những bệnh tâm thể khác…
Phương thuốc giải độc để ngăn ngừa tất cả những bệnh tâm lý và tâm thể là phương thức Thiền do Đức PhậtThích Cathiết lập. Cốt lõi của Thiền là luôn luôn sống trong cái Biết Không lời (Chánh niệm), Biết rõ ràng đầy đủ mà không dính mắc (Chánh niệmtỉnh giác), và Nhận Thức biết không lời.
Từ đấy, chúng ta sẽ kinh nghiệm: tâm hài hòa, thân hài hòa, và trí tuệ tâm linh phát huy.
Das bedeutet, dass es viele Wege gibt, die zum Ziel führen. Die Frage ist aber, welchen Weg ist Buddha gegangen? Das ist die zentrale Frage dieses Artikels: Mit welcher Methode hat der Buddha die vier Stufen der Meditation durchlaufen?
... No matter what entry we enter to transform our mind, we must test ourselves whether we thoroughly and simultaneously conduct ourselves in the Trio of Precepts - Concentration – Wisdom. It is then the true self-liberation.
Nếu mình sống bình thường, thì an lạc, đâu có đau hay khổ. Tại mình không có chánh niệm tỉnh giác, mới bị cái dầm, bên ngoài, là thứ dơ bẩn, nguy hiểm, dù cho nhỏ bé, cũng làm cho mình đau, mình khổ.”
Le printemps 1929 a vu son arrivée dans notre monde. Le printemps 1982 fut une bénédiction pour lui, qui voyait clairement le chemin à suivre. En hiver 2019, il nous a quittés...
Cependant, ce matin, sous la chaude lumière du soleil, profitant des fleurs de printemps, comment se fait-il que les yeux de quelqu'un soient en larmes ?
Nhận biết Thiền lúc nào là vô vi pháp, lúc nào là hữu vi pháp. Khi mình tập Thiền, theo giờ giấc nhất định, ngồi đúng tư thế, có kỹ thuật để dụng công, có cố gắng hay tác ý dụng công, đó là pháp có điều kiện, là hữu vi pháp, kết quả giới hạn. Khi sống bình thường, tùy hoàn cảnh ứng xử tự nhiên, thì là sống Thiền, là pháp vô vi, không cần điều kiện, tức là sống tùy duyên thuận pháp, hay để cho các pháp tự vận hành. Điều này thiệt đơn giản, trong đời, có nhiều khi mình đã sống đúng như vậy, nhưng mình không nhận ra thôi.
Dès lors qu'on a pu passer au stade de l'observation de la vacuité de l’esprit, celui-ci devient vide. Il n'y a plus rien à dire. En d'autres termes, ce "courant éternel de l’esprit" qui coule depuis de nombreuses vies s'arrête ici, sans laisser de trace.
Hôm nay đang giữa tháng 2, theo nguyên tắc thì đang mùa đông. Tuy nhiên, chúng ta đã ăn Tết 2 tuần rồi, mình cứ thấy là mùa xuân đang tới. Mấy ngày mưa vừa qua đã tưới tẩm cây cảnh thiền viện xanh tươi hẳn lên. Thiệt vậy, Tổ đình chúng ta đang “thay áo mới” chờ ăn mừng ngày Kỷ niệm 30 năm Thiền Tánh Không sắp tới đây... Nhưng “cái áo mới” ở đây mình thấy rõ nét nhất là mấy cái cốc nho nhỏ của Tổ đình mình.
Ich hinterlasse meine Fußspuren, wie die Fußspuren am Strand von Tuy Hoa an jenem Tag, schwankende Fußspuren, die sich in den goldbraunen Sand drücken, nur für einen Augenblick, die weißen Wellen plätschern herein, dann ziehen sie sich ins Meer zurück, nichts bleibt zurück, der Sand ist flach, die Fußspuren verschwunden. Ich ging weiter, hinterließ wieder Fußspuren im Sand, dann kamen die Wellen zurück, der Sand war wieder flach, und ich ging weiter, für immer allein, ohne eine Spur zu hinterlassen.
Today, I would like to introduce a simple practice for mind training without the requests of “Concentration or Wisdom.” It is the “Reflection on the Buddha, Reflection on the Dharma, Reflection on the Sangha.”
Nhân dịp đầu năm mới,
xin chân thành gởi lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới
chư Tôn Đức Tăng Ni
và tất cả thiền sinh thân hữu.
Nguyện cầu Tam Bảo gia hộ tất cả quý vị:
- Sức khỏe tốt
- Tâm an vui, sống hài hòa
- Tuệ trí phát huy
- Bồ đế tâm kiên cố. / Nam mô Bổn sư Thích ca mâu ni Phật.
Wenn es also keinen Buddha gäbe, der uns diese Kultivierungsmethode (die zweite Bedeutung von Dharma) lehren würde, dann würden die Phänomene immer nur Phänomene bleiben, und wir würden die Essenz (die erste Bedeutung von Dharma), die in den Phänomenen verborgen ist (die dritte Bedeutung von Dharma), nicht erkennen.
The most terrible wildfire in the history of Los Angeles has started for a couple of days from Pacific Palisade. It is a gorgeous city sitting on the mountainous area along the Pacific Ocean Coast, west of Los Angeles and between the two luxurious cities of Malibu and Santa Monica.
Anfang 2019 hatte ich einen Unfall. Danach hatte ich Schmerzen am Rücken und an der rechten Schulter, ich konnte meinen Arm nicht mehr heben und hatte beim Anziehen meiner Jacke starke Schmerzen im Oberarm. Die Schmerzen blieben zwei Jahre lang und wollten nicht weggehen... Ich habe dann einen Bekannten gefragt, der als Physiotherapeut arbeitet: „Wenn du einen Patienten mit Wirbelsäulenschmerzen behandelst, welchen Teil des Körpers versuchst du dabei zu beeinflussen: Knochen, Muskeln oder Gelenke? Seine Antwort war sehr kurz: „Faszien“.
So long as they could move to the stage of observing the bareness of their mind, theirs turn into empty. Nothing left to talk. In other words, “the continuous current of mind keeps running and running” via many lifespans ends without any trace.
As usual, the Americans celebrated the New Year of 2025 with the 136th Rose Parade in Pasadena, California on the first day of the year, at 8am PST, Wed, Jan 01, 2025.
No matter what ups and downs in life, that line of wisdom continues flexibly adapting itself to human life, quietly expanding and offering a source of inner peace and happiness to those who get it. Those metaphors are similar to the image of the crystal spring whose water is always cool and clear and the beginning of spiritual well-beings for humans though stones and gravels are scattering in the current. Hope the next articles in the series be the placid water that I’d warmly dedicate to the Zen practitioners who gather enough conditions.
Cửa nào cũng có thể đi vào Đạo. Nhưng thiệt ra Đức Phật Thích Ca đã đi bằng cửa nào?
Đây là câu hỏi chủ ý của bài viết này. Đức Phật Thích Ca đã dùng phương tiện nào để đạt 4 tầng Thiền dễ dàng như vậy?
Những dấu chân dài dài trên bờ biển Tuy Hòa hôm ấy, những dấu chân chập choạng in trên bãi cát vàng nâu, chỉ một thoáng, sóng trắng xóa tung tăng tràn vào, rồi rút lui ra biển, còn lại gì đâu, mặt cát phẳng lì, dấu chân biến mất. Nhưng kìa, ta lại bước đi, dấu chân lại in trên cát, và rồi sóng biển tràn vào, bãi cát phẳng lì, ta vẫn cứ đi, mãi mãi là người đi một mình, không để lại dấu vết.
Hôm nay ngày 29/12/2024 nhằm ngày 29/11 năm Giáp Thìn, Tưởng niệm ngày Thầy xa chúng con tròn năm năm. Chúng con đồng quy tụ về đây thành tâm đảnh lễ Phật, Tổ và Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân của chúng con xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sau cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
Do vậy, chúng ta có thể nói, tuệ trí (insight) là nền tảng của tiến trình tu tập của mình từ bước đầu, nó sẽ phát huy năng lực sâu sắc hoàn chỉnh lần tới Tuệ bát nhã (wisdom) và Tuệ bát nhã siêu vượt hơn cho tới vô biên.
Qui ouvre les portes du paradis ou de l’enfer? C'est nous, c'est notre choix. Nous sommes maîtres de notre vie. Rappelons-nous toujours cela. Le flux de la vie est toujours le même depuis la nuit des temps. Comment nous voyons la vie? Quelles expériences retenons-nous de notre vie? Ce sont celles que nous voyons, celles que nous aimons, celles que nous voulons, celles que nous choisissons.
Do đó nếu không có đức Phật chỉ dạy phương thức tu học (ý nghĩa thứ 2 của Pháp) thì mãi mãi hiện tượng chỉ là hiện tượng, chúng ta không thể nhận ra những bản thể (ý nghĩa thứ 1 của Pháp) ẩn tàng bên trong hiện tượng (ý nghĩa thứ 3 của Pháp).
Pháp tu “Tứ Chánh Cần” gồm bốn điều cần tu tập. Hai điều nhằm đoạn trừ pháp Ác và hai điều xiển dương pháp Thiện, nên hành giả cần có tuệ trí phân biệt thế nào là Thiện pháp, thế nào là Ác pháp.
Juste une observation pure, ouvrir les yeux et percevoir l'objet tel qu'il est. Que ce soit, en conscience verbale ou non verbale, l’esprit reste pur, calme et objectif. Il s’agit du mental vrai, dans lequel les préceptes, la contemplation, le samatha, le samadhi et la sagesse sont pleinement présents.
Erhabener, ich gebe meinen Geist auf und lebe nach dem Geist dieser Ehrwürdigen. Erhabener, obwohl wir verschiedene Körper haben, haben wir den denselben Geist.
Q.H, Đạo tràng Paris rút tỉa, sắp xếp, cắt dán lại những thuật ngữ Thiền từ các sách mà Thầy đã xuất bản -
Trương Đăng Hiếu, Đạo tràng Nam Cali đánh máy, trình bày lại để làm tư liệu Anh chị thiền sinh cùng nhau tu học.
Il est normal, naturel et raisonnable que des phénomènes apparaissent, changent et se terminent. Si nous pouvions comprendre cela, lorsque quelque chose apparaît ou disparaît, nous ne serions ni heureux ni tristes. Notre esprit est alors serein et paisible.
Đức Phật dạy khi một trong các loại tâm xuất hiện, chúng ta không làm gì khác, ngoài việc ghi nhận, quan sát, biết rõ sự hiện diện của nó mà thôi! Khi quan sát mà trong tâm không khởi lên bất cứ một ý nghĩ nào khác thì lúc đó hành giả đang trú trong tự tánh, tức tướng thật của tâm.
Wenn man den Titel dieses Artikels liest, denkt man vielleicht, dass er zu hochtrabend, umfassend und unrealistisch ist. Es stimmt, man kann dieses Thema nicht auf wenigen Seiten darstellen. Deshalb möchte ich mich heute nur auf „Die vier Grundlagen der Sympathie“ (catursaṃgrahavastu) aus buddhistischer Sichtweise beschränken und wie wir sie in unserem alltäglichen Leben umsetzen können.
Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi trên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán).
Le contenu de la retraite de cette année est principalement un résumé des thèmes centraux du zen bouddhiste, de la première à la dernière étape. Chaque année, la retraite accueille de nouveaux participants, mais la plupart d'entre eux sont des méditants chevronnés, qui ont parfois 10 ou 15 ans de pratique ou plus. L'enseignement devait donc répondre aux exigences de chaque niveau d'apprentissage.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.