HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

DUYÊN KHỞI, PHÁP DUYÊN SINH

14 Tháng Mười Hai 20179:44 CH(Xem: 17001)

KHÁI QUÁT VỀ

DUYÊN KHỞI, PHÁP DUYÊN SINH

Thích Nữ Hằng Như

-------------------------

 

NGỮ NGHĨA

          Lý Duyên Khởi gốc từ tiếng Pàli là "Paticca Samuppàda Dhamma", dịch là "tuỳ thuộc phát sinh, nương theo các duyên mà sinh". Tiếng Anh dịch là Dependent origination. Lý là nguyên lý hay định lý. Duyên là điều kiện. Lý Duyên Khởi có nghĩa là: "Tất cả những hiện tượng thế gian khởi lên là do nhiều điều kiện hay nhiều nhân nhiều duyên mà được thành lập." hay nói ngắn gọn: "Lý Duyên Khởi là từ điều kiện này khởi ra cái khác".

          Pháp Duyên Sinh gốc từ tiếng Pàli là "Paticca Samuppanna Dhammà". Pháp này là hiện tượng thế gian. Pháp Duyên Sinh có nghĩa là "Hiện tượng thế gian (pháp) thành lập là do nhiều điều kiện, nhiều yếu tố kết hợp sinh ra nó (pháp)" hay nói ngắn gọn: "Cái này có mặt là do nhiều điều kiện sinh ra".

          Gút lại: Tất cả các pháp trong vũ trụ vạn hữu đều vận hành theo quy luật Duyên sinh hay Duyên khởi. Nghĩa là các pháp sinh khởi theo Duyên, theo các điều kiện. Không có một pháp nào tồn tại độc lập. Chúng phải nương vào các yếu tố, điều kiện để phát sinh.

          So sánhDuyên KhởiPháp Duyên Sinh ta có thể hiểu như sau:

          - Lý Duyên Khởi: Từ điều kiện (duyên) này sinh ra cái khác (pháp). Thí dụ: Nhờ cây trái mà người ta có việc làm, có lương, nuôi sống gia đình. Nhờ cây trái (là điều kiện) mới có (khởi) việc làm. Có việc làm (là điều kiện) mới có (khởi) lương. Có lương (điều kiện) mới (khởi) nuôi sống gia đình. Đây là Lý Duyên Khởi.

          - Pháp duyên sinh: Là khi đứng ở chỗ hiện tượng thế gian (pháp) có mặt là do nhiều điều kiện hợp lại sinh ra nó. Thí dụ: Một hạt mầm nhờ đất nước phân bón sinh ra cây, từ cây sinh ra trái.  Cây sinh ra trái (hiện tượng thế gian) do hột mầm cộng đất nước, phân bón, ánh nắng mặt trời... (là các điều kiện hợp lại) mới sinh ra cây, cây mới ra trái.  Đây là Pháp duyên sinh.

 

CHỨNG NGỘDUYÊN KHỞI

          Trong kinh Phật Tự Thuyết, Đức Phật thuật lại rằng sau khi chứng ngộ Ba Minh. Ngài tiếp tục thiền định trong một tuần lễ để chiêm nghiệm thành quả giải thoát. Sau đó, Ngài đã lần lượt quán chiếu về mười hai nguyên nhân gây ra luân hồi của con người.

          Ngài nhận ra mười hai Duyên khởi theo chiều xuôi, tức là mười hai nhân duyên (nhân) khởi lên mười hai sự kiện (quả) gây nên khổ uẩn. Tiếp theo, Ngài quán Lý Duyên khởi theo chiều ngược. Tức là Duyên này diệt, Duyên kia sẽ diệt và toàn bộ mười hai Duyên cũng sẽ diệt. Đây là chìa khoá chấm dứt khổ uẩn, chấm dứt Vô Minh. Sau cùng, Ngài đúc kết lại thành một hệ thốngDuyên Khởi đặt ra định lý "Tương quan nhân quả" như sau:

          Chiều xuôi:

                              "Cái này có, cái kia có

                              Cái này sinh, cái kia sinh

          Chiều ngược:

                              "Cái này không, cái kia không

                              Cái này diệt, cái kia diệt"

          Đây là Chân lý thường hằng bất biến không thay đổi. Chân lý này áp dụng cho con người, loài thú, sự kiện cũng như tất cả vạn vật vô tri vô giác, tức là cho mọi hiện tượng thế gian.

          - Nói theo Lý Duyên Khởi thì "Cái này Có khởi lên cái kia Có".

          - Nói theo Pháp Duyên Sinh nghĩa là cái pháp đã hình thành rồi, "Cái kia Có" đã là pháp, đã trở thành hiện tượng thế gian. "Cái kia Có" nhìn lại phía trước do điều kiện"Cái này Có" mới sinh "Cái Có" sau.

          Về mặt 12 mắt xích cũng thế. Từ duyên Vô Minh khởi lên duyên Hành, đó là Duyên Khởi. Hành là quả của Vô Minh lập nên. Hành cũng là pháp do duyên sinh, duyên ở đây là Vô Minh.

          Như vậy hai cụm từ Lý Duyên KhởiPháp Duyên Sinh chỉ cho một hiện tượng thế gianhai mặt, tuỳ theo chỗ đứng của người quan sát. Nếu chúng ta đứng ở chỗ Nhân khởi lên cái khác là Quả, thì đó là Lý Duyên Khởi. Nếu chúng ta đứng ở chỗ Quả thì nói Quả do nhiều Nhân sinh ra, thì đây là Pháp Duyên Sinh.

          Tóm lại Duyên Khởi là đứng ở chỗ Nhân mà nói. Còn Duyên Sinh là đứng ở Quả nói do nhiều duyên sinh ra.

 

KHÁI QUÁT LÝ DUYÊN KHỞI

          Kinh ghi lại Đức Phật chứng ngộ đầu tiên về con người trong một đêm. Trước hết Ngài nhận thấy con người khổ là do sanh, già, bệnh, chết, sầu bi ưu khổ não.

          Nguyên nhân do đâu mà có cái khối Già chết sầu bi ưu khổ não? Là tại vìSanh. Do đâu có Sanh? Do Hữu. Hữu là ý muốn có mặt đời sau. Do đâu có Hữu muốn sống hoài? Do Thủ. Thủ là luôn nắm chặt, giữ chặt. Do đâu có Thủ? Là do Ái. Do Thọ có Ái. Do Xúc có Thọ. Do Sáu Căn có Xúc. Do Danh Sắc có Sáu Căn. Do ThứcDanh Sắc. Do Hành có Thức. Do Vô Minh có Hành.

          Sau khi tiềm năng giác ngộ kiến giải ra mười hai manh mối khiến cho con người phải chịu luân hồi sanh tử. Đức Phật bắt đầu chánh tư duy về những điều này.

          - Vào canh Một, Đức Phật chiêm nghiệmDuyên Khởi theo chiều xuôi:  Do duyên Vô Minh khởi sinh Hành, nghĩa là vì Vô Minh, nên con người mới khởi ra Hành, Hành là trạng thái tâm hay tâm sở. Vô Minh"nhân""điều kiện" sinh ra "quả" là Hành. Do Hành khởi sinh Thức. Khi con người chết đi thì Thức (tử Thức) thoát ra khỏi xác thân, tuỳ nghiệp mà tái sanh vào một thân mới, khởi đầu là Danh Sắc. Do Danh Sắc khởi sinh Sáu Xứ hay Sáu Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý). Sáu Căn này tiếp xúc với hiện tượng thế gian nên khởi lên Xúc.  Do Xúc khởi sinh Thọ. Khi có Thọ thì khởi lên lòng ham muốn là Ái. Khi có Ái thì muốn giữ chặt tức là khởi lên Thủ. Khi có Thủ thì khởi lên ý muốn được sống mãi trong đời này hay đời sau nên khởi Hữu. Vì có Hữu nên khởi lên động lực đưa tới tái sanh. Do Sanh thì sẽ có Lão Tử, có sầu bi ưu khổ não. Đó là các yếu tố cấu thành đau khổ gọi là Khổ uẩn.

          - Sang canh Hai, Đức Phật lý luận Duyên Khởi theo chiều ngược. Nghĩa là "do cái này không có mặt, cái kia không có mặt, do cái này diệt, cái kia diệt". Như vậy nếu con người hoàn toàn ly tham, có trí hiểu rõ về bản thể thế gianVô Thường, Khổ, Vô Ngã; có trí hiểu rõ về nghiệp báo, về luân hồi, về Lý Duyên khởi thì không còn Vô Minh nữa. Tận diệt Vô Minh đưa đến tận diệt Hành. Tận diệt Hành đưa đến tận diệt Thức. Tận diệt Thức đưa đến tận diệt Danh Sắc. Tận diệt Danh Sắc thì Sáu Căn diệt. Tận diệt Sáu Căn thì Xúc diệt. Tận diệt Xúc thì Thọ diệt. Tận diệt Thọ thì Ái diệt. Tận diệt Ái thì Thủ diệt. Tận diệt Thủ thì Hữu diệt. Tận diệt Hữu thì Sanh diệt. Tận diệt Sanh thì lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não, tận diệt. Như vậy là đoạn tận hoàn toàn hậu quả của các yếu tố gây nên đau khổ.

          - Sang canh thứ Ba, Đức Phật quán chiếu Duyên Khởi theo chiều xuôi và chiều ngược một lần nữa. Sau khi hoàn tất, Ngài sắp xếp lại thành hệ thống cả hai chiều xuôi và ngược: "Do cái này có mặt, cái kia hiện hữu. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không hiện hữu. Do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là do duyên Vô Minh có các Hành. Do duyên các Hành có Thức.. v.v... Như vậy là tập hợp của khổ uẩn này. Do đoạn diệt, ly tham, Vô Minh không có dư tàn, nên các Hành diệt. Do các Hành diệt, nên Thức diệt v.v... Như vậy là đoạn diệt của khổ uẩn này."

          Hoàn tất chứng ngộDuyên Khởi, Đức Phật đạt được giác ngộ tối hậu, chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (Pãli: Anuttara Sammà Sambodhi) là bậc đạo sư của chư Thiênloài người, đồng thời được tôn xưng là vị Phật lịch sử có một không hai ở thế giới Ta Bà này. Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

 

Lý Duyên Khởi
Duyên Khởi

 

NHÂN SINH QUAN

THEO CÁI NHÌN CỦA PHẬT GIÁO

          Thuyết giảng mười hai Nhân Duyên, Đức Phật chủ yếu nhắm vào nhân sinh. Khi mười hai Duyên Khởi, tức toàn bộ khổ đau tập khởi. Khi mười hai Nhân Duyên đoạn diệt đồng nghĩa với khổ đau chấm dứt.

          Mười hai Nhân Duyên còn gọi là 12 mắt xích, vì Duyên này kết chặt với Duyên kia tạo thành một chuỗi nhân quả khép kín. Mặc dù xiết chặt không rời như thế, nhưng vì mỗi mắt xích này là Quả của nhiều Nhân nhiều Duyên kia, nếu Nhân thay đổi thì Duyên sẽ thay đổi. Trong đó mắt xích Vô Minh và Hành thuộc về đời Quá khứ. Tám mắt xích từ Thức đến Hữu thuộc về đời hiện tại. Mắt xích Sanh và Lão Tử thuộc về đời Tương lai.

          Khi giảng về Lý Duyên Khởi Pháp Duyên Sinh, Đức Phật nêu lên một số đặc điểm của Duyên Khởi, Duyên Sinh như sau:

          1) Vô thường: Các pháp do Duyên mà sinh, cũng do Duyên mà diệt, chúng không bao giờ tồn tại độc lập, cho nên chúng luôn luôn thay đổi không cố định.

          2) Hữu vi pháp: Các pháp do nhiều điều kiện lập thành được xếp là Hữu vi pháp. Pháp Vô vi không nằm trong Duyên Khởi.

          3) Duyên sinh: Pháp có mặt là do nhiều duyên sinh ra.

          4) Biến hoại tánh: Bản thể của pháp là vô thường, bị ảnh hưởng của quy luật biến dịch nên sau một thời gian nào đó phải chịu hư hỏng biến hoại.

          5) Biến diệt tánh: Khi Duyên này diệt đi thì Duyên kia cũng biến mất, hoặc vì chịu ảnh hưởng của quy luật biến dịch nên sau thời kỳ hư hoại thì chấm dứt để trở thành cái khác.

          6) Ly tham tánh: Không còn tham ái thì cắt đứt được một trong 12 mắt xích đồng nghĩa phá vỡ vòng luân hồi.

          7) Đoạn diệt tánh: Chấm dứt.

          Trong 12 mắt xích, mắt xích nào cũng hội đủ 7 đặc điểm này. Nhìn trên bề mặt thì 12 mắt xích tạo nên khối khổ đè nặng con người trong 3 đời. Nhưng thực ra bản thể của nó luôn thay đổi và có thể để chấm dứt khổ, nếu chúng ta biết tu tập rời bỏ lòng tham ái, tận diệt Vô Minh.

          Đức Phật nêu ra 7 đặc tính của Duyên Khởi để giúp chúng ta biết cách cắt đứt vòng xiềng xích của mười hai mắt xích để chuyển hoá khổ đau. Thế nhưng cho tới bây giờ, qua bao nhiều đời chúng sanh vẫn còn trôi lăn trong 12 mắt xích. Đó là do năng lực hùng mạnh của Nghiệp lực thúc đẩy. Vậy Nghiệp là gì? Đó là hành động, là thói quen, đa phần là xấu ác. Nó là Nhân từ nhiều đời quá khứ, bây giờ thành Quả. Quả lôi kéo thúc đẩy chúng ta mãi chìm đắm trong si mê, tăm tối, tiếp tục tác ý bất thiện đưa đến hành vi, lời nói bất thiện tạo thành Nghiệp, đồng thời bên dưới Tâm Phàm PhuLậu hoặc cũng tích luỹ từ bao nhiêu đời, cũng là cái Nhân để chúng ta tạo thêm Nghiệp. Nhắc đến hai từ Lậu hoặc, chúng ta nhớ lại trong tuần lễ thứ tư, Đức Phật chứng ngộ nguyên nhân của luân hồi sinh tửLậu hoặc. Khi chứng ngộ Ngài chỉ đề cập đến ba loại Lậu hoặc, đó là:

          1) Vô Minh Lậu, 2) Dục lậu, 3) Hữu Lậu

          Sau này, khi giáo hoá Ngài đưa thêm 4) Kiến lậu, tức là cái nhìn hay quan điểm sai lầm về cuộc đời, thí dụ như điều sai thì nghĩ là đúng, điều đúng thì cho là sai, cho rằng cuộc đời của mình do sự ban phát kiểm soát của thần linh hay thượng đế v.v... khiến cho những quyết định hành động đi ngược với Chân lý, sa vào mê tín dị đoan tạo Nghiệp.

          Trong 12 mắt xích chúng ta thấy có mắt xích Vô Minh (lậu) cũng có thể xem là Kiến lậu vì không có trí huệ, mắt xích Ái (Dục lậu) và mắt xích Hữu (Hữu lậu). Như vậy trong 12 Nhân Duyên này hội đủ toàn bộ Lậu hoặcnguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử, mà Đức Phật đã đưa ra khi chứng ngộ Ba Minh. Nên nói Nghiệp lựcLậu hoặc chính là động lực tiềm ẩn thúc đẩy bánh xe Luân hồi sinh tử có thừa xăng nhớt để tiếp tục quay mãi không ngừng.

          Hiện tượng thế gian (pháp) trong đó có con người, không phải lúc nào cũng đứng yên một chỗ, mà thay đổi theo "quy luật biến dịch". Đó là "Sinh-Trụ-Hoại-Diệt-Thành". Lúc Đức Phật chứng ngộ, Ngài chỉ nói đến "Sinh-Trụ-Diệt" nhiều khi ngắn gọn là "Sinh-Diệt". Về sau chư Tổ thêm vào các chu kỳ khác là: "Sinh-Trụ-Hoại-Diệt-Thành". Có khi chư Tổ cũng nói một cách khác là: "Sinh-Trụ-Hoại-Không" rồi trở thành cái khác. 

 

 

Nhân Sinh Quan
Nhân Sinh Quan

VŨ TRỤ QUAN

THEO CÁI NHÌN CỦA PHẬT GIÁO

          Trong tuần lễ thứ bảy, khi chứng ngộDuyên Khởi, trong trạng thái định bất động, Đức Phật nhìn ngắm hiện tượng thế giannhận ra bốn đặc tính của hiện tượng thế gian đó là:

          1) Tathatà của hiện tượng thế gian, gọi là Chân Như hay Như Tánh: Đó là trạng thái hoàn toàn khách quan, bất động, như vậy...của hiện tượng thế gian.

          2) Avitathatà (Bất ly tánh): Tathatà của hiện tượng thế gian đó, không chia cắt được.

          3) Anannathatà (Bất dị tánh): Tathatà của hiện tượng thế gian không khác nhau.

          4) Idapaccayatà (Y duyên tánh): "Ida" nghĩa là riêng biệt. "Paccaya"điều kiện. "Tà"bản thể hay là Tánh (của hiện tượng thế gian). Có thể hiểu Idapaccayatà là: - "Điều kiện tánh riêng biệt của hiện tượng thế gian", hay nói cách khác: - "Bản thể của hiện tượng thế gian là nương tựa nơi nhiều điều kiệnthành lập nên gọi là Y Duyên Tánh" hay: - "Mỗi hiện tượng thế gian thành lập do nhiều điều kiện nên gọi là Y Duyên Tánh".

          Y Duyên Tánh trong thế giới hiện tượng được Đức Phật diễn tả qua bài kệ: "Cái này có, cái kia có. Cái này sanh, cái kia sanh. Cái này không cái kia không. Cái này diệt cái kia diệt". Đây là quy luật "tương quan nhân quả". Bên trong quy luật tương quan nhân quả"quy luật biến dịch", là năng lượng làm thay đổi hình thể, màu sắc, sự sinh và diệt của hiện tượng thế gian.

          Chúng ta thử quan sát cây phong qua bốn mùa, chúng ta sẽ thấy vào mùa Xuân cây ra lá non nhỏ màu xanh nhạt, đến mùa Hè lá xanh đậm và lớn hơn, đến mùa Thu lá chuyển thành màu vàng, và vào đầu hay giữa mùa Đông thì lá rụng hết. Khi mùa Xuân trở lại, thì lá non mới lại đâm chồi mọc ra. Đó là do bên trong thân cây chịu ảnh hưởng của quy luật biến dịch "Sanh-Trụ-Hoại-Diệt-Thành", và đặc tánh của nó là "Vô Thường, Xung đột (để biến hoá) và Không thực chất tính (không độc lập, không tự nhiên mà có, mà do nhiều điều kiện lập thành)"

          Khi một hiện tượng có mặt gọi là Sinh, nó có mặt một thời gian gọi là Trụ và cuối cùng chấm dứt gọi là Diệt. Về sau chư Tổ thêm vào hai giai đoạn biến đổi nữa là Hoại và trở thành một hiện tượng khác gọi là Thành.

          Tất cả mọi quá trình "Sinh-Trụ-Hoại-Diệt" của con người hay hiện tượng thế gian ở bề mặt được phân chia từng giai đoạn theo quy ước tục đế, để dễ dàng phân biệt, chứ thật ra bản thể của Sinh chính là Trụ, Sinh cũng là Hoại, Sinh cũng là Diệt. Chu kỳ Sinh của một pháp phải trải qua 4 giai đoạn: Sinh-Trụ-Hoại-Diệt rồi mới qua chu kỳ Trụ. Trong chu kỳ Trụ cũng phải trải qua đủ 4 giai đoạn Sinh-Trụ-Hoại-Diệt mới qua chu kỳ Hoại. Chu kỳ Diệt cũng vậy. Tại sao thế?

          Một con người được sinh ra, nên chúng ta mới thấy sự hiện hữu của người đó trước mặt. Con người đó hít hơi thở không khí vào phổi, tạo năng lượng sống. Khi thở hơi ra hay nín thở chính là lúc khiến năng lượng sống bắt đầu chết. Khi năng lượng sống mạnh và kéo dài bao lâu thì đó là Trụ trong Sinh. Khi năng lượng sống kém xảy ra trong con người đó, thì Hoại đang có mặt trong Sinh, đồng thời Hoại cũng đang có mặt trong Trụ. Khi con người hoàn toàn tắt thở không còn sự sống nữa thì qua giai đoạn Diệt tức chết đi. Vì thế trong mỗi quá trình, mỗi giai đoạn Sinh, Trụ, Hoại, Diệt đều có đủ các giai đoạn Sinh Trụ Hoại Diệt của nó, rồi mới trở thành cái khác.

          Trong mười hai nhân duyên cũng thế, mỗi nhân duyên cũng có đủ các chu kỳ Sinh, Trụ, Hoại, Diệt. Từ đó mới khởi thành Duyên khác. Thí dụ Duyên Vô Minh phải trải qua các chu kỳ Sanh, Trụ, Hoại, Diệt rồi trở thành Duyên Hành. Tất cả những biến đổi của hiện tượng thế gian, nhìn chung đều do "quy luật biến dịch" thúc đẩy và nó có tính cách "tương quan nhân quả" với nhau.

          Riêng về những vật vô tri vô giác thì không có Nghiệp lực mà chỉ bị ảnh hưởng của "quy luật biến dịch" mà thôi. Con người cũng luân hồi theo chu kỳ "Sinh-Lão-Bệnh-Tử". Mỗi giai đoạn khi dài khi ngắn khác nhau và mỗi giai đoạn cũng chịu quy luật biến dịch: Sinh-Trụ-Hoại-Diệt-Thành.

          Như thế qua hai định luật "Tương quan nhân quả""biến dịch", chúng ta nhận thấy Đức Phật đã giải thích sự hình thành của Vũ Trụ và sự vận hành của Vũ trụ cũng như biến hoại của Vũ trụ qua hai định luật này từng sát-na. Nhờ vào đó, chúng ta thấy định luật "tương quan nhân quả" trình bày sự phát triển Nhân Duyên trải rộng trong không gian. Còn quy luật "Sinh-Trụ-Hoại-Diệt-Thành" có thể xem  như là sự biến chuyển qua thời gian.

          Từ các quy luật này mới rút ra Tam Pháp Ấn đối với con người là:

          1) Vô Thường, 2) Khổ, 3) Vô Ngã.

          Còn hiện tượng thế gian thì:

          1)Vô Thường, 2) Xung đột (để biến hoá), 3) Không thực chất tính (đôi khi các vị Tổ cũng dùng từ Vô Ngã như "Nhân Vô ngã Pháp Vô ngã").

 

 

 

Vũ Trụ Quan
Vũ Trụ Quan

GIÁ TRỊ CỦA GIÁO LÝ DUYÊN KHỞI

          Quy luật biến dịch "sinh-trụ-hoại-diệt-thành" luôn chi phối trên tất cả các pháp hữu vi trong vũ trụ không phân biệt tâm pháp hay sắc pháp, lớn hay nhỏ. Duyên Sinh, Vô Thường, Vô NgãChân lý của thế gian có sẵn từ vô thuỷ vô chung nhưng không ai biết, đến khi Đức Phật thành đạo, chứng ngộ pháp này, mới chỉ dạy cho chúng sanh để đoạn trừ chấp ngã khổ đau.

          Đức Phật xác nhận pháp Duyên Khởi mà Ngài chứng ngộ là thường pháp của thế gian. Dù Đức Thế Tônxuất hiện hay không thì pháp đó vẫn tồn tạithế gian, ảnh hưởng đến sự sinh diệt của tất cả vạn pháp. Ngài cũng cho biết pháp Duyên Khởi này không do Ngài đặt chế, cũng không do ai khác tạo ra. Trả lời câu hỏi về pháp này của một vị Tỳ Kheo trong pháp hội, Đức Phật đã trả lời: "Pháp Duyên Khởi chẳng phải do Ta tạo ra, cũng chẳng phải do người khác tạo ra. Nhưng dù Như Laixuất hiện hay chưa xuất hiệnthế gian thì pháp giới này vẫn thường trụ. Như Lai tự giác ngộ pháp này, thành Đẳng Chánh Giác, vì tất cả chúng sanhphân biệt, diễn nói, chỉ dạy hiển bày; đó là: Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi. Tức là do duyên vô minh nên có hành... cho đến việc tụ tập thuần một khối khổ lớn. Do vô minh diệt nên hành cũng diệt... cho đến việc thuần một khối khổ lớn tụ tập cũng bị diệt". (Kinh Tập A Hàm, số 299)

          Giáo lý Duyên Khởi giải thích đời sống của vũ trụđời sống của con người qua các quy luật Duyên Sinh, Vô Thường, Vô Ngã. Giữa con ngườivũ trụ có sự tương quan nhân quả. Nhưng chủ yếu của Ngài nhắm vào con người để giúp con người vượt thoát những hệ lụy phiền não, đau khổ triền miên. Ngày nào con người còn bị màn Vô Minh che phủ trí tuệ, nuôi dưỡng dục vọng thì con người mãi mãi đau khổ. Để chấm dứt tình trạng khổ đau này Đức Phật dạy con người cần tìm hiểu giáo lý Duyên Khởi, học hỏi thông suốt đạo lý này để biết cách thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử khổ đau. Đó là phải diệt mắt xích Vô Minh và cắt đứt được mắt xích Ái dục.

          Một bài kệ Đức Phật đọc sau khi thành đạo, cho thấy mắt xích Vô MinhKhát Ái chính là tác nhân khiến cho con người sống trong phiền nãođau khổ như sau: "Xuyên qua nhiều kiếp sống trong luân hồi / Như Lai thênh thang đi, đi mãi. / Như Lai đi tìm mãi mà không gặp, Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này. / Lặp đi lặp lại đời sống quả thậtphiền muộn. / Này hỡi người thợ làm nhà, Như Lai đã tìm được ngươi. / Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như Lai nữa, / Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông của ngươi dựng lên cũng bị phá tan. / Như Lai đã chứng quả Vô Sanh Bất DiệtNhư Lai đã tận diệt mọi Ái Dục".

          Bài kệ này cho thấy rằng Đức Phật đã trải qua nhiều kiếp tái sinh chịu nhiều đau khổphiền não, vì chưa tìm được người xây nhà. Trong kiếp cuối cùng, lúc tọa thiền, an trú trong định bất động, Ngài đã kiến giải ra anh thợ xây cất nhà không ở bên ngoài, mà nằm sâu kín bên trong Ngài, đó là Ái dục. Còn cái sườn của căn nhà tự tạo ấy là những ô nhiễm như: tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến, phóng dật, không hỗ thẹn (tàm quý), hành động bất thiện. Cây đòn dông chịu đựng cái sườn chính là: Vô minh (nguyên nhân phát xuất mọi dục vọng). Phá vỡ cây đòn dông Vô Minh, bằng trí tuệ, là làm sập được căn nhà đang chịu nhiều đau khổ. Không có vật liệu thì anh thợ (Ái dục) đành bó tay. Ở đây, ý nói Vô Minh bị diệt nên Dục vọng tức Ái dục bị diệt. Do đó tất cả 12 mắt xích đều bị tan rã đồng nghĩa bấy giờ căn nhà hoàn toàn sạch lậu hoặc không còn nghiệp chuớng nên căn nhà chính là Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ giải thoát.

          Trong Kinh Đại Duyên, Đức Phật bảo tôn giả Ananda: "Này Ananda, chính vì không giác, không thâm hiểu giáo pháp duyên khởi này mà chúng sinh hiện tại bị rối loạn như một tổ kén, rối ren như ống chỉ, giống như cỏ munja và lau sậy babaịa, không thể nào ra khỏi khổ xứ, ác thú, đoạ xứ, sinh tử". Qua lời này của Đức Phật, nếu con người không thông hiểu giáo pháp Duyên Khởi thì đời sống của người đó chắc chắn sẽ chìm đắm trong đau khổ không có lối thoát.

 

GÚT LẠI

          Giáo lý Duyên Khởi từ trước đến giờ vẫn được xem là giáo lý quan trọng, là cái sườn của Phật pháp, là nền tảng của các giáo lý căn bản như: Tứ Diệu Đế, Ngũ Uẩn, Nghiệp Báo, Nhân Quả, Vô Thường, Khổ, Vô Ngã... Đạo lý Duyên Khởi này đã được chư Tổ, chư tôn thạc đức nghiên cứu không biết bao nhiêu mà kể. Hình như càng nghiên cứu, các bậc thầy càng khám phá thêm những nét đặc thù giá trị của đạo lý này. Vì thế không dễ gì với khả năng hạn hẹp của kẻ hậu học có thể trình bày một cách rốt ráo hay dẫn chứng được những điểm giá trị tột cùng của pháp Duyên Khởi. Chỉ mong bài viết này có thể giúp các bạn mới bắt đầu nghiên cứu Phật pháp có thể nhận rathông hiểu những điểm chính về mười hai Nhân Duyên, về định lý tương quan nhân quả "Cái này có cái kia có, Cái này sanh cái kia sanh. Cái này không cái kia không, Cái này diệt cái kia diệt". Cũng như về quy luật "biến dịch" trong vũ trụ quan và nhân sinh quan. Đó là quy luật "sinh-lão-bệnh-tử" hay "sinh-trụ-hoại-diệt-thành" để làm tư lương căn bản tu tập.

          Người viết hiểu rằng giáo lý Duyên Khởi đặc biệt giải thích về trạng thái đau khổ con người do đâu sinh ra. Tất cả là do 12 Duyên Khởi. Bằng vào tuệ giác siêu việt, Đức Phật tự kiến giải, rồi khai thị cho chúng ta hiểu. Đó là một vòng tròn tuy nói là khép kín, nhưng cũng có cách để chúng ta phá vỡ nó. Chỉ cần chúng ta diệt một trong các mắt xích, mà quan trọng nhất là mắt xích Vô MinhÁi dục thì tự động cái vòng phiền não này sẽ tan rã. Nếu chúng ta chịu tu tập theo các giáo lýĐức Thế Tôn đã giảng dạy thì sẽ cắt đứt được Vô MinhÁi dục. Những giáo lý đó là Tứ Diệu Đế, Ngũ Uẩn, Nhân Quả, biết tàm quý, sám hối chừa bỏ những lỗi lầm, tu theo Giới Định Huệ v.v...

          Bắt đầu bước vào đạo lộ Phật pháp thật rất khó, bởi vì chúng sanh ở trong cõi dục này vốn ưa thích ái dục, ham muốn ái dục, thường sống với tâm ô nhiễm tham lam, sân hận, si ám, phóng dật, ít chịu thiền định để quay về bên trong hầu tận diệt tham dục. Chính Thế Tôn đã nhìn ra bản chất của chúng sanh như thế nên Ngài cũng đã phân vân trước khi mang pháp của Ngài ra giáo hoá chúng sanh. Điều này có ghi lại trong Kinh Thánh Cầu như sau: "Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh, y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!".

          Tuy nói là khó, nhưng như Đức Phật đã từng tuyên bố rằng các pháp của Ngài chủ yếu để hướng dẫn con người tu tập thoát khổ giác ngộ giải thoát. Chúng tacon người có bộ não biết tư duy, biết chọn con đường để đi đến chỗ an vui hạnh phúc, xa lìa con đường dẫn tới khổ đau. Nếu không bắt đầu đi vào đạo lộ Phật pháp thì sẽ không bao giờ tới nơi chúng ta muốn tới. Nếu không bắt đầu tu tập thì chúng ta sẽ không bao giờ chuyển đổi nhận thức, chuyển đổi Tâm Phàm Phu ô nhiễm khổ đau để an trú trong Tâm Bậc Thánh an vui thanh tịnh. Nếu không bắt đầu tu tập theo pháp Phật có nghĩa là chúng ta bằng lòng chấp nhận đời đời kiếp kiếp làm nô lệ cho khổ đau và mãi mãi trôi lăn trong vòng sinh tử. Con đường dẫn đến hạnh phúc hay khổ đau, Đức Phật đã chỉ bày không giấu diếm. Chọn con đường nào đó là phần quyết định của chúng ta.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Thích Nữ Hằng Như

15/12/2017

 

 

 

Tài liệu:

- Dựa theo giáo trình giảng dạy các khoá Bát Nhã lớp Trung Cấp 2 của Hoà Thượng Thích Thông Triệt (Thiền Viện Tánh Không).

- "The Buddha And His Teachings", Hoà Thượng Nãrada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch. Nhà xuất bản Xuân Thu phát hành 1970.

- Kinh Đại Duyên (Kinh Trường Bộ I): Cố Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch.

- Kinh Phật Tự Thuyết (Kinh Tiểu Bộ tập I): Cố Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch.

- Kinh Thánh Cầu (Trung Bộ Kinh): Cố Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch.

- Kinh Tạp A Hàm trong "Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh" Tập 5.  Thầy Thích Đức Thắng dịch.

         

         

 

         

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1329)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1653)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1218)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
11 Tháng Năm 20239:41 SA(Xem: 1702)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
10 Tháng Năm 20237:33 CH(Xem: 1289)
Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.
02 Tháng Năm 202312:58 CH(Xem: 1666)
Mười Hai Duyên Khởi, cũng còn gọi là Mười Hai Nhân Duyên, là 12 nhân duyên liên kết nhau để hợp thành một chuỗi nhân quả (P: nidāna). 12 nhân duyên như 12 mắt xích hay 12 nguyên nhân đưa đến tình trạng Khổ của con người hay tái sinh.
30 Tháng Tư 20238:57 CH(Xem: 1425)
Der Buddha sagte: "Der Tathagata ist nur ein Wegweiser, alleine musst du gehen." Das heißt, du kennst nun den Weg, gehst alleine hin, verlass dich auf niemanden, der richtige Weg ist deine Weisheit, die dich zu deinem ursprünglichen Geist zurückbringt. Im ursprünglichen Geist sind alle Phänomene Buddha-Dharmas, und die Welt ist ein reines und glückliches Nirwana.
24 Tháng Tư 20236:07 CH(Xem: 1267)
Trong thiền Phật giáo có nhiều nguyên lý tâm linh dẫn đến mục tiêu cứu cánh là chuyển hóa tâm, cân bằng thân-tâm, phát triển tuệ giác, và giải thoát.
17 Tháng Tư 202310:01 SA(Xem: 1880)
Thiền Tánh Không do Hòa Thượng Thiền Chủ Thích Thông Triệt thiết lập, kết hợp những tinh hoa rút từ tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca, các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, Thiền Tông và kỹ thuật Thiền, được soi sáng bởi các khám phá đương thời của khoa học não bộ và các chứng ngộ của Thầy thành một hệ thống tu thiền sâu sắc, tân thời, rõ ràng và hiệu quả.
11 Tháng Tư 20237:56 CH(Xem: 1985)
Vai trò của khoa học não bộ rất quan trọng. Đây là kiến thức thời đại. Chúng ta mượn khoa học não bộ để đối chiếu cách thực hành của chúng ta qua Pháp của Phật. Có như thế chúng ta mới chứng minh được giá trị Pháp của Phật đối với mọi trình độ căn cơ. Chúng ta biết vì sao chúng ta thực hành sai, vì sao chúng ta thực hành đúng.
01 Tháng Tư 20239:35 SA(Xem: 1513)
Wir befinden uns mitten in einem wirbelnden Wasserstrudel, würden wir darin stehen bleiben, würden wir von dem absorbiert werden und wir werden ertrinken. Wenn wir uns bewegen würden, würden wir uns auch nur in diesem wirbelnden Strudel herum drehen. Aber wie können wir denn diesem Lebenskreis entkommen?
26 Tháng Ba 20237:30 CH(Xem: 1944)
Đã không biết bao năm qua, mình khờ dại đi tìm “Qua khỏi vùng sương mù là xứ thần tiên”. Đã bao lần thấy vùng sương mù, bao lần mơ ước sẽ gặp xứ thần tiên, nào có gặp được. Tìm cầu bên ngoài, làm sao có xứ thần tiên. Cuối đời mới biết xứ thần tiên thiệt ở trong tâm của mình.
24 Tháng Ba 202310:02 CH(Xem: 2013)
Đức Phật tự nhận: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, các ông phải tự đi”. Các ông phải tự đi có nghĩa là các ông thấy ra con đường rồi, cứ tiến bước một mình, không được ỷ lại nơi ai khác, con đường chánh pháp là trí tuệ của mình sẽ đưa chúng ta trở về bản tâm. Trong bản tâm, tất cả pháp đều là Phật pháp, và thế gian là cõi Phật thanh tịnh an vui.
24 Tháng Ba 202310:18 SA(Xem: 1202)
Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần, như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.
22 Tháng Ba 20234:26 CH(Xem: 1592)
Không phải hễ ngộ là chấm dứt hết lậu hoặc! Vì vậy, tuy hạt ngọc đã có sẵn, nhưng ta phải nỗ lực dụng công. Vô ngôn chính là phương thức làm cho Phật tánh bật ra vậy.
18 Tháng Ba 20239:58 SA(Xem: 1473)
Wir müssen in der Lage sein, zu erkennen, wann wir den Bedingungen folgen sollen und wann wir eventuell andere Bedingungen schaffen sollen, um im Einklang mit dem Universum leben zu können, denn wir sind die Schöpfer unseres Lebens, für jetzt und für die Zukunft.
15 Tháng Ba 202311:03 CH(Xem: 1941)
Thực tập phương thức làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi (phải-trái) của thế gian.
13 Tháng Ba 202311:02 SA(Xem: 1160)
Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra...
08 Tháng Ba 20238:24 CH(Xem: 1755)
Hôm nay, thấy hoa thủy tiên nở rộ, hoa mai cũng e ấp đón gió mát, con biết mùa xuân sang. Đã tới mùa mừng sinh nhật Thầy. Thầy đã xuất hiện nơi cõi đời nhằm mùa xuân, Thầy đã thấy con đường, cũng một mùa xuân năm đó, rồi Thầy ra đi, một đêm cuối mùa đông.
08 Tháng Ba 20238:17 CH(Xem: 1653)
Chúng ta đang ở giữa biển nước xoáy, nếu chúng ta đứng lại nơi đó thì ta sẽ bị đắm chìm cuốn hút và chết đuối. Nếu chúng ta bước tới, cũng chỉ là loanh quanh trong biển nước xoáy thôi, bước tới hay bước lùi, có khác gì đâu, rồi cũng trôi giạt bồng bềnh trong biển đời, không ra khỏi. Vậy thì làm sao đây?
05 Tháng Ba 20239:03 CH(Xem: 1414)
GEDANKE heißt in Chinesisch “mạt na”. Wahrscheinlich wurde es aus dem Wort “Manah oder Manas“ in Sanskrit übersetzt. “mạt na” (S: Manah) oder Gedanke bedeutet die Denkfähigkeit oder das Denkvermögen. In English heißt er “the capacity of thought”, “the thinking faculty”. In Pali bedeutet das Wort Mano der Geist oder der Gedanke. Im Abhidharma wird Manha gleichgesetzt mit Bewusstsein (viññāna) und Geist (citta, Bewusstseinszustand).
05 Tháng Ba 20239:01 CH(Xem: 1095)
Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
28 Tháng Hai 20239:06 CH(Xem: 2324)
Chúng ta phải sáng suốt biết lúc nào nên tùy duyên, lúc nào phải tạo duyên tốt, phải biết mình sống có thuận pháp không, vì chính mình là chủ tạo ra cuộc đời của mình, trong bây giờ và mai sau nữa.
27 Tháng Hai 20238:19 CH(Xem: 1858)
Việc làm bếp đâu có khác việc tu tập. Làm bếp để sống, thì tu tập cũng để sống thôi. Cho nên những nguyên tắc để làm bếp tốt cũng là những nguyên tắc để tu tập tốt. Việc gì ta làm cũng là tu tập, con đường đời cũng là con đường tu, do nơi cái tâm của mình, nó thấy ra sao. Nó thấy ra sao, đó là cảnh giới mình đang sống.
25 Tháng Hai 20232:42 CH(Xem: 1732)
Trời đất vô tình, vạn vật vô tình, mà vạn vật biết sống hài hòa với hoàn cảnh tự nhiên. Chúng ta có trí, có tri giác, có tình cảm, vậy phải biết sống đời thiện lành, quan sát tâm mình từng giây phút, ý nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng...
23 Tháng Hai 20237:55 SA(Xem: 1211)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.
18 Tháng Hai 20232:24 CH(Xem: 1400)
Das Naturgesetz regelt alle Phänomene. Es ist gleichzeitig ihr Evolutions- und Entwicklungsgesetz. Es gründet das Universum, regelt den Ablauf des Universums, schützt und pflegt die Existenz des Universums. Die Welt ist offenbar eine wunderbare Harmonie von Idappaccayatā.
14 Tháng Hai 20233:56 CH(Xem: 1539)
Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã...
13 Tháng Hai 202310:37 SA(Xem: 1555)
Mạt na hay Ý có nghĩa năng lực của tư tưởng hay năng lực tư duy, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM
05 Tháng Hai 20236:14 CH(Xem: 1720)
Tánh giác không từ đâu đến. Nó không nằm trong quy luật duyên sinh của hiện tượng. Ta không thể khám phá nó khởi ra từ đâu khi có sự xuất hiện của con người trên quả đất.
28 Tháng Giêng 20237:39 SA(Xem: 1356)
Realität ist nicht 100%ig echt aber auch nicht 100%ig illusorisch. Oder „Das Gerade jetzt“ existiert, ist „echt“ und gleichzeitig „illusorisch“. Oder In der Realität ist eine Illusion vorhanden und in der Illusion existiert eine Realität.
25 Tháng Giêng 202311:14 SA(Xem: 1866)
Định luật Y Duyên Tánh vận hành tất cả thế gian. Nó cũng là định luật biến hóa và phát triển, là sức sống mãnh liệt, đã thành lập vũ trụ, điều hành vũ trụ, và bảo vệ duy trì sức sống của vạn vật. Thế gian biểu hiện sự hài hòa tuyệt vời theo sự biến hóa khách quan của “Y Duyên Tánh”. Vậy, các bạn thân ơi, đây có phải là một bức tranh puzzle tuyệt vời không?
24 Tháng Giêng 20233:16 CH(Xem: 1542)
Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được thọ thanh tịnh. Người còn nhiều dính mắc không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.
18 Tháng Giêng 20237:43 CH(Xem: 2177)
Đất trời quê hương đang vào xuân, mong gởi một món quà nhỏ tặng cho bạn tri âm, mùa xuân trong tâm mình.
18 Tháng Giêng 20237:51 SA(Xem: 1494)
Der Buddhismus betrachtet die „Geburt“ nicht als Beginn eines neuen Lebens sondern die Geburt beginnt bereits mit dem Tod, dann folgt eine Rückkehr und eine erneute Geburt. Diesen Zyklus: Geburt und Tod, Werden und Vergehen, nennt man im Buddhismus den Daseinskreislauf (Samsara) und Alter ist ein Teil dieses Lebenskreislaufs.
17 Tháng Giêng 20231:21 CH(Xem: 1348)
Cái gì được nhận ra đầu tiên trong một sát na, và nhận rõ cuối cùng qua những chuỗi sát na tiếp theo, là đối tượng của nhận thức.
10 Tháng Giêng 20231:01 CH(Xem: 1481)
Thực tại là “giống như Thực” , đồng thời là “giống như Huyễn”. Đó là Trung Đạo. Nói cách khác nữa: Thực tại là không phải hoàn toàn Thực, cũng không phải hoàn toàn Huyễn. Cũng có thể nói: “Cái Đang là” vừa là “Thực” vừa là “Huyễn”.
69,256