Triệt Như - Tâm Tình Với Nhau - Bài 47
Bài viết này không có tham vọng khảo sát về những triết lý cao xa trong Phật giáo. Phần này xin để chư Tôn Đức, những bậc uyên thâm bác học trong cửa Thiền.
Những bài viết của cô là trong phạm vi tâm tình với các em, cùng nhau lần mò dắt díu nhau từng bước đi trong đêm tối mịt mù, chỉ thấy bóng của Phật, của Tổ mờ mờ ảo ảo xa tít, bóng của Thầy mình cũng chỉ còn là những nhận thức in trong ký ức mà thôi. Cho nên bài này chỉ là vài ý nghĩ tỏ bày, để cùng đóng góp xây dựng với nhau, mong đi tới cái mục tiêu của mình.
Ngày xưa, lúc còn học trung học, cô chưa biết gì nhiều về Phật pháp. Tuy ở trường có học về triết lý đông phương, cũng chỉ hiểu khái quát về Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Lúc đó, ba má của cô có nhiều kinh và sách Phật giáo lắm. Có một lần, cô được đọc một quyển sách, dường như tựa là: ”Đường về Cực lạc”. Trong đó đa số là kể những điển tích xưa và nhiều truyện cận đại về quí vị có tu rồi khi từ trần có nhiều cảnh mầu nhiệm hiển lộ khi ra đi hay sau khi mất. Đọc cũng thấy vui và dễ hiểu. Tuy nhiên, đọc xong rồi thì quên hết. Duy chỉ có một câu, tại vì mình không hiểu, nên còn nhớ, mãi cho tới bây giờ, qua hơn nửa thế kỷ. Câu gì vậy? Giống như một câu công án của Tổ sư Thiền! Câu này:
“Nếu ai tu cho tới khi nằm chiêm bao thấy hoa sen, là thành công, là sẽ về Tây phương cực lạc”.
Câu này thỉnh thoảng vẫn hiện lên trong ký ức của cô. Nếu quả thật vậy thì đâu có khó! Cái đầu óc khờ dại của cô lúc trẻ tưởng như vậy.
Cuộc đời trôi đi theo thời gian. Những tháng ngày sóng gió, đạn pháo kích từng đêm, ngay giữa lòng Sàigòn, nhà nhà đều có bao cát chất đống dưới gầm giường. Hể nghe một tiếng nổ thứ nhất thì lập tức nhào xuống gầm giường. Lúc đó, ngủ thường nằm mơ, toàn là thấy cảnh mình bị rượt đuổi, chạy không kịp, có lúc thấy ma quỷ hiện ra, sợ hãi, niệm Phật lia lịa. Tỉnh giấc mồ hôi đẫm áo, miệng khô, tim còn đập mạnh.
Rồi cũng qua đi, Cuộc sống ổn định lại từ từ. Lúc đó, biết tìm quên trong kinh kệ, mỗi đêm, trước khi ngủ luôn luôn cô lấy kinh Phát triển ra đọc. Cho tới khi buồn ngủ mới xếp kinh lại. Từ đó ngủ bớt dần dần ác mộng. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn còn nằm mơ thấy bị người rượt đuổi, mình chạy trốn mà không nhúc nhích được, nên còn sợ hãi tới mức tỉnh giấc luôn.
Khi qua tới quê hương thứ hai này, cuộc sống bình thường, tâm lần lần ổn định. Thường khi cũng còn nằm mơ. Thấy gì? Cứ thấy mình đi về con đường cũ, lần mò về tới ngôi nhà xưa, có khi thấy ông bà ngoại, mà thường là thấy ba má, anh em. Lúc đó ba má anh em vẫn còn sống. Sau này ba má anh em qua đây hết, nhưng sau rồi ba má cô qua đời.
Thỉnh thoảng cô còn nằm mơ cứ thấy mình tìm về nhà cũ, đi lại con đường cũ, có khi gặp lại ba má. Có lúc biết ba má cô đã mất rồi nên sợ rồi tỉnh giấc. Có khi thấy ba má cô mà cô không sợ, tới nắm tay má coi là người hay là ma nữa chứ! Cô có một kinh nghiệm ngộ lắm. Lần đó nắm tay má của cô, lúc đó cảm giác má cô là người thiệt, tức là cái cảm giác giống hệt như xúc chạm khi cô đang thức vậy. Sự kiện này cũng khiến cô phãi suy nghĩ: tại sao khi nằm mơ, tức là không sử dụng giác quan, tay không có tiếp xúc thiệt, mà sao vẫn có cảm giác xúc chạm y như thiệt?
Vậy sau khi bỏ thân này rồi, mình có còn thấy, nghe và xúc chạm, giống như khi có thân hay không? Câu trả lời, có thể.
Bây giờ trở lại chủ đề. Sau này cô học với Thầy, trong khóa Tâm lý học Phật giáo, khi học về các Bộ phái trong thời kỳ Phân liệt, kéo dài mấy trăm năm, từ sau khi Phật nhập diệt 100 năm cho tới khoảng đầu công nguyên. Trong 10 bộ phái tách ra từ Theravàda, Độc Tử Bộ đã giải thích về Tái sanh như sau:
Pudgalavàda- Hữu Ngã Luận,
Con người /Nhân /Ngã thể: luôn luôn lưu động không ngừng: tạo nghiệp, chịu quả báo, đi luân hồi hay đi tái sinh.
Ngã thể này không phải là 5 uẩn, cũng không lìa 5 uẩn .
Ngã thể này là thực thể tồn tại từ quá khứ tới vị lai, từ phàm phu cho đến khi thành Phật và chỉ chấm dứt trong Niết Bàn.
Trong phạm vi bài này, cô không khai triển về Hữu Ngã luận, cô chỉ nói vắn tắt là Hữu Ngã luận không mâu thuẩn với thuyết Vô Ngã của Phật mà hệ Theravàda chủ trương. Đó là khác cách diễn đạt và dùng tên thôi, vì dù nói là có Ngã, đi luân hồi, nhưng ngã này cũng phải chấm dứt trong niết bàn. Còn Phật thì nói vô ngã, cái đi tái sanh gọi là Thức. Thức thì thay đổi luôn luôn khi còn thân hay khi không có thân. Thức là một dòng tương tục sinh diệt từng sát na thời gian và chỉ chấm dứt trong niết bàn.
Bây giờ cô trình bày tiếp. Trong hệ Theravàda, có một bộ phái lại triển khai vấn đề tái sanh. Họ nói rằng: Cái đi tái sanh gọi tên là BHAVANGA. Tạm xem Bhavanga là Luồng Sinh Tồn. (theo thuật ngữ Thầy dùng trong khóa Tâm lý học Phật giáo).
Đây là vài ý trên internet giải thích từ Bhavanga:
- a mental process which conditions the next mental process at the moment of death and rebirth.
- constituent of becoming, function of being, functional state of subconsciousness,
- a stream of consciousness.
Đối với chúng ta, là người bình thường, thì Luồng Sinh Tồn này là Dòng lưu chuyển liên tục của ý thức. Một niệm Biết rõ ràng của Ý thức chấm dứt thì một niệm khác mới khởi lên. Liên tục không gián đoạn. Cho nên niệm Biết cuối cùng tạm gọi là Tử thức, niệm Biết khi tái sanh tạm gọi là Thức tái sanh. Và Thức tái sanh là quả. Tử thức là Nhân. Vì thế Tử thức còn được xem là cận tử nghiệp.
Bài này, cô chỉ muốn nói đến một khía cạnh rất nhỏ của vấn đề mà thôi. Cô không dám bàn tới chủ đề tái sanh.
Bộ phái đó giải thích rộng ra hơn một chút:
“Luồng Bhavanga đó tương tự như tâm thức của chúng ta khi chúng ta ngủ say.”
Đây là điểm chủ yếu của bài viết này.
Từ khi được học với Thầy về chủ trương này, cô nắm ngay ý đó. Vậy mình có thể nhìn thấy thực sự tâm mình còn ẩn chứa sâu kín cái gì qua những giấc chiêm bao để mình có thể hình dung khi ra đi, mình sẽ như thế nào sau đó.
Cũng trong chương trình của khóa Tâm lý học Phật giáo, có sử liệu về ngài Đại Thiên / Mahà Deva, thời cua A Dục/ Asoka (304- 232 BC), thế kỷ III trước công nguyên. Ngài Đại Thiên là một danh tăng trẻ, phóng khoáng cấp tiến, là thầy của vua A Duc và hoàng gia, trụ trì một ngôi chùa ngay tại kinh đô Hoa Thị Thành / Pàtaliputra của vua A Dục. Chính thái tử Mahinda và công chúa Sanghamittà là đệ tử xuất gia của ngài Đại Thiên, đã mang Tam Tạng kinh bằng chữ Pàli sang Sri Lanka truyền dạy, hình thành Nam Tông về sau.
Trở lại ngài Đại Thiên. Trong sử liệu còn ghi, ngài Đại Thiên đã chủ trương uyển chuyển hơn về phẩm chất của một vị A la hán. Sử gọi là Ngũ sự A la hán:
1- A la hán ngủ có thể còn nằm mơ thấy ma dâm, có thể di tinh trong mộng.
2- A la hán có thể còn phải học (chưa phải là bậc vô học)
3- A la hán có khi chưa tự biết mình đã đạt quả A la hán, mà phải nhờ Thầy bảo mới biết
4- A la hán có thể vẫn còn nghi
5- A la hán còn dụng công với lời nói:”khổ ơi”
Chủ trương nầy, hệ Theravàda phản đối, giữ vững tiêu chuẩn của Phật dạy: A la hán là bậc hoàn toàn trong sạch, không còn lậu hoặc. Trong khi Hệ Đại chúng bộ chấp thuận quan điểm của ngài Đại Thiên. Từ đó, sự cách biệt giữa hai hệ thống, bảo thủ và cấp tiến càng xa nhau. Và cũng từ đó, dường như không còn ai dám tự xưng là A la hán nữa. Thay thế là danh xưng Trưởng Lão.
Cô kể lại chuyện về ngài Đại Thiên chỉ để bàn về một quan điểm: người tu phải tự mình biết rõ mình. Ngày xưa có Phật, Phật thấy tâm mình. Ngày xưa có Tổ, Tổ cũng có thể nhìn thấu tâm mình. Bây giờ ai biết mình cho bằng mình. Phải không các em? Ai nói nhìn thấy tâm mình, mình chỉ cười thôi. Mình phải thấy rõ tâm mình. Đó là phương thức tu duy nhất. Đừng chờ đợi ông thầy bói nào nói chuyện quá khứ vị lai.
Còn một chi tiết nữa trong Ngũ sự, đó là nếu còn nằm mơ thấy ma dâm, tức là còn lậu hoặc, cái bản năng còn tiềm tàng trong tâm. Cũng có thể nói là trong tiềm thức của mình. Nếu trong giấc ngủ còn bùng lên lậu hoặc, thì khi ra đi, tâm trí có thể lu mờ rồi, lậu hoặc cũng có thể bùng lên thành cận tử nghiệp thì làm sao thoát khỏi tái sanh.
Khi ngủ say, nếu luồng Bhavanga chưa hoàn toàn trong sạch, còn dính mắc, tất nhiên sẽ bung lên thành ra những giấc mơ. Giấc mơ của lậu hoặc là pháp ác rồi. Lậu hoặc của dục ái là đầu mối của tái sanh, nếu còn tiềm tàng trong thức hay tiềm thức, thì làm sao giải thoát được. Ban ngày, có khi mình che giấu, mình kiểm soát, bằng trí tuệ, bằng đạo đức, giữ gìn giới luật, sợ hậu quả v.v... Nhưng trong giấc mơ, cái gì còn đọng lại trong tâm thức, hay trong ký ức, trong bản năng hay trong tiềm thức, là vẫn có thể bung ra tự do.
Với những suy gẫm linh tinh như vậy, cô thấy công phu tu tập của mình sẽ biểu hiện, dĩ nhiên ra ý nghĩ, lời nói, việc làm của mình. Như từ xưa tới giờ. Và sẽ gây ra nghiệp với người khác.
Nhưng là người tu thực sự thì tự mình phải biết rõ chính mình. Những cái gì còn che giấu, ẩn núp sâu kín trong tâm, chỉ một mình hay biết mà thôi. Không cần nói ra, không thể nói ra. Nhưng mình vẫn lảnh cái hậu quả của cái tâm thức sâu kín của mình, trong đời này và đời sau nữa. Có khi nó là tùy miên, mình không biết được.
Nhưng những giấc mơ, nó sẽ báo cho mình biết.
Cám ơn những giấc mơ.
Nhưng các em có biết không? Có một sự thật này, trong kinh thường nói:
< Chư Phật ngủ không bao giờ nằm mơ>.
Từ đó, cô cũng hiểu vì sao mà Đức Phật, tất cả những vị thánh đệ tử A la hán của Đức Phật, và hầu hết chư Tổ Thiền tông, các vị Thiền Sư tên tuổi còn ghi trong sử, dường như tất cả – chỉ trừ ra vài vị - đều ra đi trong Định, tức là tỉnh thức, ngồi kiết già thị tịch. Nghĩa là sao? Ra đi trong Tâm Chói Sáng. Thì đi đâu? Nhập niết bàn.
3- 7- 2020
TN