MỤC ĐÍCH, PHƯƠNG PHÁP và THƯỚC ĐO sự TU TẬP
Của Người CƯ SĨ PHẬT GIÁO
Ngọc Huyền
Bài này trích lược một vài ý chính bài thuyết giảng của Tuệ Huy tại Thiền Đường Tánh Không, Đạo tràng Nam California ngày 22 tháng Tám, 2020 cùng với một số ý của người viết. Có thể nghe trọn bài trên tại https://www.youtube.com/watch?v=kK2-daDCb4k&t=54s
Dàn bài thuyết giảng
Phật giáo Nguyên Thủy và Phật giáo Phát triển luôn có hai thành phần: giới xuất gia và giới tại gia hay cư sĩ. Giới xuất gia gồm chư Tăng Ni. Giới cư sĩ gồm cư sĩ nam, ưu bà tắc, và cư sĩ nữ, ưu bà di. Dù xuất gia hay tại gia, con đường tu tập (phương pháp tu), mục đích tu, và thước đo việc tu (kết quả tu) đều giống nhau. Tuy nhiên, kết quả tu đến sớm hay muộn tuỳ theo căn cơ, nhân duyên và sự miên mật dụng công của mỗi người.
Đức Phật đã nói rõ “ Tất cả các pháp đều lấy dục làm căn bản”. “Dục” là tham ái, ái nhiễm, ham muốn, mong cầu thanh và trược. “Dục” là nguồn cội sâu xa và cụ thể nhất gây đau khổ khiến con người chìm đắm trong sanh tử, lên xuống trong vòng xoáy luân hồi trong vô số kiếp. Thế nên mục đích tối hậu của việc thực hành giáo pháp Như Lai là thoát khổ, nhận thức rõ hay giác ngộ chân lý uyên nguyên của vũ trụ và giải thoát khỏi luân hồi. Người tu tập phải xác định rõ điều này để không đi lạc đường, biết kiên nhẫn, biết quay lại nhìn mình để việc tu tập có hiệu quả. Cũng cần phải hiểu thêm rằng “Đạo Phật là đạo Giải Thoát qua Trí Tuệ”. Tức là bất cứ ai muốn hết khổ người đó phải tự mình thực hành và trải nghiệm những điều chư Phật dạy để tự khai mở trí tuệ, chuyển đổi nhận thức, thay đổi chính mình. Tức là không thể nhờ vào bất cứ tha lực nào khác. Cốt lõi sự thực hành Phật giáo đặt căn bản trên Tam Vô Lậu Học: Giới, Định, Tuệ, the Triad of Mind Culture, và Tam Pháp Ấn, Tilakkhana, the Triad of Mundane Characteristics.
Là con người, ai cũng bị sắc chất lôi cuốn quyến rũ. Khó ai có thể cưỡng lại sức mạnh của tiền tài, chức vụ, quyền lực, cái đẹp và người đẹp, thức ăn ngon, nhà cửa bề thế sang trọng, xe cộ đắt tiền, sự ngưỡng mộ, tôn trọng của cộng đồng, xã hội.... Cái ta, của ta và tự ngã của ta cứ thế mà hình thành phát triển mạnh mẽ. Và cứ thế ngũ uẩn cùng thập nhị nhân duyên ngày càng ràng buộc con người chặt chẽ vào luân hồi sanh tử như lời một bài dân ca “cá cắn câu biết đâu mà gỡ”.
Muốn biết các pháp mong manh và tác động đến con người như thế nào, có thể không cần làm gì phức tạp. Xin hãy nhìn mái tóc của quý bà để xem nó đã được o bế cho bóng mượt ra sao bằng các loại thuốc nhuộm, dầu gội đầu, dầu xả, dầu dưỡng và cắt chải bằng những kỹ thuật tân kỳ để làm đẹp thêm cho nhan sắc. Thế nhưng khi tóc rụng xuống, dù là tóc của chính mình, ai cũng thấy gớm ghiếc, chỉ mong sớm vất vào thùng rác. Nếu chẳng may những sợi tóc ấy rơi vào thức ăn hay thức uống thì còn gây những cảm giác khó chịu nhiều lần hơn thế.
Một cách khác nữa là hãy nhìn một bàn ăn có những đĩa thức ăn ngon lành, nóng sốt, thơm ngào ngạt, đủ màu sắc, trình bày hấp dẫn, được nấu bằng nguyên liệu hảo hạng bởi các tay đầu bếp thượng thặng. Người ăn ai cũng hoan hỉ, hài lòng. Nhưng giả sử không hiểu vì lý do nào, có người đang thưởng thức các món ăn đó bỗng dưng ói ra tất cả xuống sàn. Bữa ăn chắc không còn ngon nữa. Mấy ai dám nhìn đống bầy hầy trên sàn nhà mà không cảm thấy nhờm gớm hay chán ngán. Đó là nghĩa đầu tiên, đơn giản nhất của câu châm ngôn “miếng ăn quá khẩu thành tàn”.
Với Tam Pháp Ấn, đức Phật đã chỉ ra ba tính chất của mọi hiện tượng thế gian là vô thường, anicca, khổ, dukkha, và vô ngã, anatta kể cả các hiện tượng tâm lý phức tạp chìm sâu trong vô thức Xin cùng đọc trích đoạn bài kinh Vô Ngã Tướng.
“Này các thầy, các thầy nghĩ sao? Sắc là thường hay vô thường?
- Sắc là vô thường, thưa Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay sướng ?
- Là khổ, thưa Thế Tôn.
- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?
- Không thể được, thưa Thế Tôn.
Các thày nghĩ sao? Cảm thọ là thường hay vô thường?
- Cảm thọ là vô thường, thưa Thế Tôn.
-Cái gì vô thường là khổ hay sướng?
- Là khổ, thưa Thế Tôn.
- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?
- Không thể được, thưa Thế Tôn.”
Các thầy nghĩ sao? Tri giác là thường hay vô thường?
- Tri giác là vô thường, thưa Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay sướng?
- Là khổ, thưa ThếTôn.
- Như vậy, đối với cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, người ta có thể nói: "Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta" được chăng?
- Không thể được, thưa Thế Tôn.
Tương tự như vậy, Đức Thế Tôn hỏi các đệ tử của Ngài về tính chất của tâm tư và ý thức. Các đệ tử cũng trả lời y như trên. Rồi Đức Thế Tôn kết luận:
“Này các thầy, như thế thì tất cả những gì thuộc sắc thân quá khứ, vị lai hay hiện tại, ở trong hay ở ngoài, thô hay tế, xấu hay tốt, xa hay gần, tất cả những gì là sắc thân cần phải được nhận định theo chánh trí huệ, đúng như thật: "Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta".
Cũng thế, tất cả những gì thuộc cảm thọ, tri giác, tâm tư và ý thức quá khứ, vị lai hay hiện tại, ở trong hay ở ngoài, thô hay tế, xấu hay tốt, xa hay gần, tất cả những gì là sắc thân cần phải được nhận định theo chánh trí huệ, đúng như thật: "Cái này không phải của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta".
Khi nhận định sự vật như thế, này các thầy, người hành giả thông minh xa lià và nhàm chán sắc thân, xa lià và nhàm chán cảm thọ, tri giác, tâm tư và ý thức. Do nhàm chán xa lià nên vị ấy không còn ham muốn. Do hết ham muốn nên được giải thoát. Khi được giải thoát, trí huệ khởi lên: "Đây là sự giải thoát" và vị ấy biết: "Tái sinh chấm dứt, phạm hạnh đã thành, điều nên làm đã làm, không còn trở lại thế gian này nữa".
Người tu tập giáo pháp Như Lai cần thấm đẫm Tam Pháp Ấn để THẤY “khổ” qua các pháp hữu vi sinh diệt và phải BIẾT “khổ” đến từ tham ái. Không thấy “khổ” và không biết “khổ” thật khó học đạo và khó nhận ra tánh không của các pháp. Tam Pháp Ấn chính là pháp quán chiếu sâu sắc giúp người tu thấy “khổ” và biết “khổ” để khởi phát tuệ giác về KHÔNG, Śȗnyatȃ, Emptiness. Người ta “Khổ” vì sắc chất, cảm thọ, suy nghĩ, tri giác và ý thức luôn luôn đi theo chu kỳ “ sinh, trụ, hoại, diệt”. Người ta “Khổ” vì tất cả luôn thay đổi không theo ý mình muốn, và không thể chiếm hữu hay kiểm soát mãi mãi,. Khi Tam Pháp Ấn trở thành nhận thức cô đọng, hành giả đã thành lập chánh tri kiến vững chắc. Với chánh tri kiến vững chắc, nhìn vào bất cứ pháp nào, sự việc nào, hay cảm xúc, suy nghĩ nào cũng thấy sự ngắn ngủi ngoài tầm tay giữ, bất toại ý mà bám vào đó chỉ đem đến phiền não, khổ đau. Cứ liên tục quán chiếu như thế, đó là chánh tinh tấn. Với Tam Pháp Ấn, chánh tinh tấn sẽ giúp người tu xây dựng chánh niệm qua việc quán thân, thọ, tâm, pháp (Tứ Niệm Xứ). Cứ miệt mài như thế, người tu sẽ thấy mình biết sống hài hòa và thuận duyên, thuận pháp với gia đình, cộng đồng, môi trường xung quanh. Khổ ưu, phiền não sẽ giảm bớt vì họ đã bắt đầu “nhàm chán”, yểm ly, sắc chất cùng ngũ dục, tức là bớt ham muốn tiền, danh lợi , vật chất, ăn ngon, ngủ nghỉ) và tập được thói quen “thấy, nghe, xúc chạm và nhận thức như thật”. Sự nhàm chán này đưa đến “ly tham”, xa rời ái dục. Nhờ đó, ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cùng với lục trần, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, ngày càng giảm tác động. Nhờ “yểm ly, ly tham”, người tu “đoạn diệt” được thân kiến, ta, của ta và tự ngã của ta, mà thấy tất cả là KHÔNG, là tạm bợ trong thời gian ngắn, và trôi dần vào biển giải thoát. Lúc này gọi là “dự lưu” hay “nhập lưu”. Cứ đi “nhất hướng” như thế trên biển giải thoát thì ngày hội nhập “Niết Bàn” không xa. Bát Nhã Tâm Kinh cũng nói:
“...Khi hành Bát Nhã Ba La,
Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng.
Thấy ra năm uẩn đều KHÔNG,
Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua.”
(Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.)
……………………………….
“ Này Xá Lợi Tử ghi lòng,
Không không tướng ấy cũng không tướng hình,
Không tăng giảm, không trược thanh
Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng.
Vậy nên trong cái chân KHÔNG,
Vốn không năm uẩn cũng không sáu trần.”
(Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bắt giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp...)
Khi đó, người tu có thể lập lại lời ĐứcThế Tôn “ sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm, ta không còn trở lại cõi đời này nữa”.
Từ lâu, bác sĩ đều có phác đồ điều trị khi chữa bệnh cho bệnh nhân. Ngày nay, chúng con đệ tử Phật, dù chưa đủ duyên xuất gia, cũng xin mạo muội phác họa cấu trúc “3 /4, 5, 6 ” (hình dàn bài thuyết giảng) như tóm tắt phác đồ trị bệnh KHỔ cho chúng sanh để kính dâng lên Đức Thế Tôn với lòng kính ngưỡng mênh mông và vô vàn tri ân sâu sắc.
Ghi chú: 3: Tam Pháp Ấn; /: phát huy; chuyển hóa; 4: bốn tánh nghe, thấy, xúc chạm, nhận thức; 5: ngũ uẩn; 6: lục trần.