KHÔNG
&
KỸ THUẬT KHÔNG NÓI
MỞ ĐẦU
KHÔNG là một trong ba chủ đề lớn trong Phật giáo Nguyên Thủy và Phát Triển. Hai chủ đề khác là Chân Như và Huyễn.
Trước hết, đứng trên lập trường tục đế, thiết lập hữu vi pháp, KHÔNG được Phật đề ra với chủ đích mở rộng tầm nhìn mới cho đệ tử, giúp đệ tử nhận thấy thực tướng hiện tượng thế gian nói chung, con người nói riêng đều không có tự thể (self-entity) hay không có thực thể của riêng mình.
Con người với những phần tâm, gọi là Danh, những phần vật chất, gọi là Sắc đều thay đổi không dừng (vô thường), xung đột triền miên (khổ), và không thực chất tính (vô ngã). Trong đó không có một linh hồn trường tồn, bất biến. Không có cái gì thực sự là "tôi/ta," cũng không có cái gì thực sự "thuộc về của tôi/ta" một cách vĩnh viễn. Tất cả đều trống không (śūnya), trống rỗng, không thực chất, như bọt nước. Tất cả đều tạm bợ và đi qua như cơn mộng. Vì tất cả đều tùy thuộc vào cái khác; chúng không độc lập, chúng xảy ra trong sự tương quan với những nguyên nhân (causes) và điều kiện (conditions) mà Phật gọi là "có nhân có duyên" (sahetu-sapaccaya).
Không (emptiness) là một trong ba khái niệm quan trọng bậc nhất trong giáo lý Bát Nhã. Nó cũng được gọi là Tánh không (śūnyatā). Nó không phải là không có gì, nhưng cũng không phải có gì. Vì từ bản chất, nó chẳng mang bất cứ thuộc tính nào. Nó vô tướng (signless). Nó cũng không phải là đối tượng của niệm hay của suy nghĩ. Vì niệm hay suy nghĩ đi ngược bản chất Không. Không là thành quả của trực giác nhận ra chứ không phải bằng suy luận. Bằng trí năng hay ý thức không thể nhận ra đúng nội dung Tánh không.
Ý NGHĨA CỦA KHÔNG
1. Nghĩa bên ngoài của KHÔNG. Đây là NGOẠI KHÔNG
Trên bề ngoài, nghĩa ngắn gọn của Không là:
- Không đồng nghĩa với Vô Tướng, Vô Nguyện. Vì trong nó không có tất cả hình ảnh hay biểu tượng, hoặc không có tất cả ý niệm hay mục tiêu ước muốn gì trong tâm.
- Nó cũng đồng nghĩa với Vô Sanh, Không Hiện hữu hay Phi Hữu, Không Làm Ra, Niết Bàn, Tịch Diệt (cessation). Vì bên trong của Không chẳng có hiện hữu bất cứ một sắc thái hay phẩm chất hoặc thuộc tính gì. Chẳng có thứ gì bên trong nó.
2. Nghĩa đàng sau của KHÔNG.
Trên thực chất bên trong, nghĩa ngắn gọn của Không là:
- Không là sự tĩnh lặng của chính bên trong hiện tượng. Trong đó không thể dùng bất cứ lời gì để diễn tả về nó. Trái lại, chỉ áp dụng nhận thức không lời để kinh nghiệm về nó.
- Đây là tiến trình lập thành NỘI KHÔNG.
- Nói chung, toàn bộ những định danh, định nghĩa về Không mà ta đã học qua, chỉ có tác dụng giúp ta thiết lập trong bản đồ nhận thức về nó. Bây giờ đến khi thực hành, ta cần phải nắm nghĩa đằng sau KHÔNG là gì để biến nó trở thành cái Không bên trong tâm ta mà Phật thường đề cập trong hệ kinh Nikāya là Nội Không.
Không (śūnyatā - Emptiness) là vắng mặt tất cả sự hình dung (all imaginations), vắng mặt tất cả lời nói thầm trong não. Nhưng muốn đạt được không, ta phải có kinh nghiệm về nhận thức ngữ nghĩa của không. Trong tiến trình này mặc nhiên đã có sự hình dung về nội dung của Không như thế nào. Nếu không có hình dung làm sao lập thành nhận thức? Tuy nhiên, trong tiến trình hình dung, không có mặt trí năng hay ý thức phân biệt mà chỉ có nhận thức không lời.
Trên phương diện Thiền, Không là trạng thái tâm không khởi niệm. Không là vắng mặt tất cả lời nói thầm trong não, chỉ có niệm biết không lời. Nơi đây tự ngã vắng mặt, ý căn, ý thức và trí năng vắng mặt.
KHÔNG được xếp vào cửa thứ nhất. Người muốn vào cửa này, trên căn bản tâm phải ở trong trạng thái trống không. Tối hậu của KHÔNG là KHÔNG LỜI NÓI THẦM TRONG NÃO. Người nào đạt được trạng thái này, người đó có kinh nghiệm tâm không. Người đó cũng có thể đi vào được Cửa Không ngay tức khắc.
Nó là một trong ba phương tiện duy nhất để đi đến giải thoát, phát triển trí tuệ tâm linh sâu sắc, và cũng giúp ta cân bằng thân tâm kiến hiệu. Trên mặt vọng tâm, nó giúp thiền gia xóa bỏ dính mắc và đắm trước.
Gốc rễ gây ra phiền não, đau khổ và luân hồi trên nguyên tắc chính là tập khí hay lậu hoặc. Nhưng trên thực tế chính là sự phân biệt (vikalpa) “đây là Tôi,” “đây là của Tôi,” “cái này không phải của Tôi.” Nói chung, phân biệt là tâm nhị nguyên. Nó là gốc rễ phiền não. Bề mặt của vọng tâm được biểu lộ ra qua thân và lời chính là tâm nhị nguyên. Còn bên trong chính là sự nói thầm. Với người giác ngộ, muốn dẹp tâm phân biệt là phải làm chủ sự nói thầm trong tâm. KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ NGUYỆN là những phương thức giúp ta dẹp được sự nói thầm trong tâm. Khi sự nói thầm trong tâm bị kiểm soát, tâm phân biệt không thể nào khởi lên. Khi tâm ngôn tĩnh lặng, ngay đó phiền não không xuất hiện. Ngay đó, tâm được giải thoát, tuệ được giải thoát. Và cũng ngay đó ta đạt được Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Vì sao? Vì Không là sự tĩnh lặng. Vô tướng là không danh hay không tên gọi. Vô nguyện là không có bất cứ một niệm gì trong tâm.
Vì vậy, muốn đạt được một trong ba cửa giải thoát, ta phải đạt được Trạng Thái Không Nói trong tâm vững chắc. Đây là mấu chốt của việc đi vào ba cửa giải thoát.
KỸ THUẬT “KHÔNG NÓI”:
GIỚI THIỆU - ĐỊNH NGHĨA
1. Thiền có phải là một tôn giáo không? Không!
2. Thiền là gì?
Thiền là một cách huấn luyện tế bào não để có một quán tính mới – quán tính của tâm yên lặng.
(Hoà Thượng Thích Thông Triệt)
3. Kỹ thuật “KHÔNG NÓI”: (KN)
- Đơn niệm Biết.
- Lệnh cho não bộ (dứt tiếng lầm bầm).
- Thành lập ký ức mã số “KN” để nhận ra Trạng thái Không Nói.
4. Định là gì?
ĐỊNH là sự tĩnh lặng vững chắc của Tâm, là trạng thái Biết không lời, trong đó chỉ có Niệm Biết và không có gì nữa cả.
(Thích Thông Triệt)
CÁCH THỰC HÀNH:
Bước 1: “Ra Lệnh Không Nói” - Nhận ra Trạng Thái Không Nói
“DÙNG LỆNH KHÔNG NÓI”
Dùng Đơn niệm Biết “Không Nói”. Chủ động nói để dán chặt tâm vào chủ đề. Dùng lệnh Không Nói để huấn luyện tế bào não yên lặng.
A) Qua nghe:
- NÓI RA LỜI 2 từ “KHÔNG ... NÓI”:
- Nói nhừa nhựa, vừa nghe, miệng nói và tai nghe.
- BIẾT mình đang nói ra lời 2 từ K ... N, nói liên tục nhằm ra lệnh cho tế bào não yên lặng.
- NÓI THẦM 2 từ “KHÔNG ... NÓI”:
- BIẾT mình đang nói thầm KN, nói liên tục, BIẾT mình đang nói thầm.
- Nói thầm KN, nói thưa ra để nhận ra trạng thái yên lặng trong não giữa các lần KN. Trạng thái yên lặng trong tâm chính là trạng thái không nói. Ghi nhận trạng thái KN này vào ký ức.
B) Qua thấy:
Ghi 2 từ Không Nói vào tờ giấy hay tấm bảng rồi đặt trước mặt.
B1) Nhìn 2 từ KN rồi đọc thầm: “Không…Nói”. Đọc thầm chậm rãi nhằm ra lệnh cho tế bào não yên lặng.
B2) Khép mắt lại để nhận ra trạng thái tâm không khởi niệm cũng chính là trạng thái không nói. Nếu trong đầu tự nói lại thì mở mắt và làm lại bước B1. Ghi nhận trạng thái không nói vào ký ức.
C) Qua xúc chạm:
C1) Đi thiền hành chân trái chạm đất nói “KHÔNG”, chân phải chạm đất nói “NÓI”. Cột tâm vào sự xúc chạm của chân với mặt đất. Đây là phương cách cài mệnh lệnh “Không Nói” vào sự xúc chạm khi đi thiền hành. Cách này rất thích hợp cho những hành giả không thể ngồi lâu được.
C2) Ngưng nói thầm KN để nhận ra trạng thái yên lặng trong tâm giữa những lần xúc chạm của chân và mặt đất. Nếu trong đầu tự nói lại thì ra lệnh KN trở lại theo như bước C1. Ghi nhận trạng thái không nói vào ký ức.
Ghi chú: Có thể áp dụng kỹ thuật này qua sự xúc chạm của hơi thở vào ra nơi đầu mũi, hay sự phồng xẹp nơi ngực hay bụng khi thở vào, thở ra.
Bước 1 nhằm thành lập Ký Ức Mã Số Không Nói thông qua Thấy Nghe Và Xúc chạm. Khi hành giả đã nhận ra được trạng thái không nói thì bước 1 xem như hoàn tất và không nên tiếp tục tập để tránh trở thành thói quen.
GHI CHÚ:
(1) Duy trì Niệm Biết để không bị hôn trầm và thụy miên.
(2) Ghi nhớ: bước đầu nói thầm “không nói” một cách liên tục để không có chỗ cho đối thoại thầm lặng phát sinh, sau đó nói “không nói” thưa dần để nhận ra “trạng thái không nói” ở giữa 2 lần nói KN: KN…… “Trạng thái KN” ……KN.
Bước 2: “Gợi lại trạng thái Không Nói” – An trú trong Trạng Thái Không Nói
“GỢI Ý KHÔNG NÓI” qua Thấy – Nghe – Xúc chạm.
- Khởi ý “Không Nói” – Buông. Gợi lên trạng thái không nói đã nhận ra ở bước 1 rồi ngưng. Nếu trong đầu tự nói lại thì tập trở lại bước 1.
- Nếu trong đầu vẫn tiếp tục yên lặng thì chính là đang an trú trong trạng thái “Không Nói" và không cần phải làm thêm gì nữa.
Điều kiện cần thiết để thực hành kỹ thuật “Không Nói”:
Trước hết, ta phải nắm rõ đặc tính của “sự dừng lời nói” thực sự là không nói thầm hay không tự nói qua nói lại với ta về chủ đề mà ta đương thực hành. Trong giai đoạn này, nếu thực hành bất kỳ chủ đề nào của Thiền, trong đầu ta cứ nói thầm liên tục, ta sẽ mãi mãi ở bước khởi đầu. Không thể nào tiến lên bước kế, dù ta cố công thực hành vài mươi năm.
Thứ hai, phải nắm rõ đặc tính biết không lời là thấy, nghe, cảm nhận biết đối tượng mà không nói thầm về đối tượng. Ví dụ, đối tượng của ta là “trạng thái không nói”. Như vậy, khi đang không nói, dù tâm cảm nhận như thế nào, ta cũng không nói một lời gì về cảm nhận đó. Ta chỉ thầm nhận biết thôi. Nếu khởi niệm nói thầm thì sai. Vì khi nói thầm, mạng lưới Tưởng sẽ triển khai, ý thức, trí năng, tự ngã, và tâm sở (thái độ) liền có mặt. Cho nên, cần nhớ: “không nói một lời gì, dù lời đó mô tả trạng thái tâm của ta”.
Thứ ba, phải nắm vững kỹ thuật thực hành cách làm chủ tâm ngôn bằng lệnh “không nói”. Đây là cách thực hành không sử dụng ý thức để tập trung tư tưởng vào đề mục; không sử dụng trí năng để quán sát đối tượng. Chỉ giữ niệm biết không lời. Mấu chốt của niệm biết không lời là nền tảng cơ bản của tất cả các loại định. Trong đó khởi đầu chúng ta phải sử dụng lệnh “không nói” để cắt đứt sự “tự nói thầm trong não” nhằm nhận ra “trạng thái không nói” ở giữa 2 lệnh “không nói”. Tiếp theo sau đó ta tập an trú trong trạng thái “không nói” bằng cách ngưng luôn lệnh “không nói”, ngay lúc đó trong đầu ta sẽ hiện lên một trạng thái nhận biết rõ ràng và không lời thường trực. Mấu chốt là cần “nhận ra” trạng thái không nói; sau đó mới có thể “an trú” được. Nói cách khác, nếu chưa bao giờ nhận ra trạng thái của tâm ra sao khi “sự nói thầm hoàn toàn chấm dứt” thì không bao giờ an trú được. Mọi cố gắng khi đó chỉ là tinh tấn phí sức và mệt nhọc.
Đúc kết từ bài đọc thêm về Không và 2 bước đầu trong Kỹ Thuật Thực Hành “Không Nói” của Hòa Thượng Thích Thông Triệt.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Xin hồi hướng công đức đến khắp tất cả,
Thiền Đường Tánh Không, tháng 9 năm 2020 (Bài chia sẻ trong buổi Sinh Hoạt Đạo Tràng ngày 12 tháng 9 năm 2020).
Tuệ Chiếu
Khi hành giả đã nhận ra được trạng thái không nói thì bước 1 xem như hoàn tất và không nên tiếp tục tập để tránh trở thành thói quen.
Cám ơn Tuệ Chiếu rất nhiều về "Bước 1 Thành lập Ký Ức Mã Số và .... sau khi bước 1 hoàn tất thì không nên tiếp tục tập để tránh trở thành thói quen !"
Bài Đúc kết rất đầy đủ và dễ hiểu , hy vọng sẽ giúp được nhiều bạn thiền mới đến với Thiền Tánh Không và thực tập kỹ thuật Không Nói. (DN)