Cúng Dường Tăng Ni
* Hỏi: Từ ngày tham gia Thiền Tánh không và được nghe các audio của Ni sư Triệt Như, tôi tập thực hành Hạnh Bố thí. Tôi bắt đầu giúp đồng bào nghèo, bệnh tật, lũ lụt, v.v... Tôi hiểu là pháp thí được phước báu nhiều nhất, nên có ý định cúng dường các thầy, nhưng bây giờ có quá nhiều chùa, tôi không biết nên cúng cho ai. Xin hỏi làm sao mình biết thầy nào tốt, thầy nào không tốt để mà cúng dường?
* Đáp: Trước tiên, chúng ta nên tìm hiểu về ý nghĩa của hai từ “pháp thí":
Hiểu một cách giản đơn nhất, "pháp thí" là giảng cho người khác nghe những chân lý. Giảng trực tiếp bằng lời nói, bằng cách viết sách giảng nghĩa về giáo lý của Đức Phật và phổ biến rộng rãi cho người khác đọc. Hoặc “pháp thí” gián tiếp bằng cách ấn tống kinh sách hoặc đóng góp tịnh tài vào việc dịch, xuất bản, ấn tống kinh sách.
Thời Đức Phật còn tại thế thì Đức Phật nghiêm cấm tất cả mọi tăng ni không phân biệt cao thấp không được nhận tiền, vàng bạc, đá quí... của thí chủ mà chỉ được nhận “tứ vật dụng” thôi. Ngày nay thì giới luật này thường chỉ được áp dụng ở các tu viện nơi có nhiều tăng chúng tu hành (từ bốn vị trở lên), nơi mà tiền bạc cúng dường được quản lý bởi một bộ phận gọi là Ban Trị Sự hay Hôi Phật giáo mà các thành viên là những cư sĩ tu tại gia lãnh trách nhiệm quản lý mọi công việc hành chánh, trong đó có bộ phận quản lý tài chánh (treasory) của tu viện. Ngày nay tình trạng khá phổ biến là trong một “chùa” chỉ có một vị tăng hay một vị ni mà thôi. Thế cho nên tiền bạc cúng dường đều do vị tăng hay ni trụ trì quản lý.
Khi một vị tăng, hay ni, tu tập trong một chùa có đông đảo tăng, ni chúng, có vị viện chủ là người đạo hạnh, nghiêm trì giới luật, chùa có chế độ sinh hoạt nghiêm túc thì Phật tử chúng ta dễ tin tưởng vào phẩm hạnh của tăng, ni chúng tu trong chùa đó. Bằng ngược lại, nếu chùa chỉ có 1, 2 vị tăng, ni, thì chúng ta rất khó biết họ có thực sự “tu tốt” hay không.
Tuy nhiên, tất cả những điều vừa nêu cũng chỉ là những yếu tố có tính cách căn bản và tương đối mà thôi. Bởi vì, ngày xưa, trong một bài kinh, Đức Phật có nhắc nhở chư tăng như sau (đại ý): các thầy đừng tự cho mình là một vị sa môn (thầy tu) chơn chánh chỉ vì các thầy giữ được tứ oai nghi tốt đẹp (tứ oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi). Ý Đức Phật muốn nói là: cho dù bên ngoài, đi đứng nằm ngồi, các vị tu hành có tỏ ra rất trang nghiêm thanh tịnh, và ngay cả cho dù các vị ấy có nghiêm trì giới luật, cũng không phải vì như vậy mà họ xứng đáng được xem là những sa môn chơn chánh. Một vị sa môn xứng đáng được gọi là sa môn, theo lời dạy của Đức Phật, chỉ khi tâm của vị ấy được thanh lọc thanh tịnh, không dính mắc với những ham muốn ái dục.
Ngày nay, một vị xuất gia tu hành, dù tu một mình trong một chùa hay tu trong một tu viện có tăng chúng đông đảo, nếu không có những hành vi gây tai tiếng xấu và là người thường quan tâm và có khả năng diễn đạt giáo lý của Đức Phật cho đồ chúng nghe hiểu, thì thiết nghĩ họ cũng xứng đáng để chúng ta cúng dường.
Làm sao biết thầy nào tốt, thầy nào không tốt để mà cúng dường?
Một vị tu hành có phẩm hạnh căn bản là vị nghiêm túc hành trì những giới luật Đức Phật đặt ra. Đó là những giới luật được truyền cho một người khi họ làm lễ xuống tóc xuất gia.
Vị thầy nào thường quan tâm muốn giảng pháp và giảng pháp hay, đồng thời thấy vị đó có vẻ thành thật muốn tu hành, sống đơn giản, biết đủ, không đòi hỏi, biết thu thúc lục căn (ví dụ không muốn đi du lịch đó đây, không ham thử những món ngon vật lạ, không nghe nhạc hoặc xem phim để giải trí), không nịnh bợ những “đại thí chủ”, dùng thì giờ rảnh để học hỏi kinh điển, để ngồi tịnh tâm... thì mình có thể cúng dường tịnh tài hay tứ vật dụng cho họ".
* Tạm thời chúng ta có thể dựa vào các yếu tố sau để nhận định một vị tăng có phải là chánh tăng hay không (lưu ý đây cũng chỉ là các gợi ý cơ bản):
- có giảng đúng giáo pháp của Đức Phật hay không? là giảng đúng tinh thần từ bi, bao dung tha thứ, biết đủ, biết xả bỏ, của đạo Phật, không gợi những ham muốn ái dục (ví dụ khuyến khích Phật tử chạy theo tiền tài, địa vị, danh tiếng), không kích động sân hận, không kêu gọi hận thù, bạo động ....
- có giữ giới luật hay không? Giới luật của người xuất gia: bao gồm nhiều hạng từ căn bản đến tinh tế. Căn bản là tương tự như ngũ giới của người Phật tử tại gia (1/ không sát sanh, 2/ không trộm cắp, 3/ không tà dâm—người tu thì không được có hành vi sinh lý (sexual activities, gọi là không được “thông dâm”), 4/ không nói dối—kể cả nói lời nói ác, nói vu khống, nói để chia rẽ và 5/ không uống rượu và dùng các chất ma túy).
- lối sống hằng ngày: không nằm giường cao chiếu rộng, không lái xe xịn đắt tiền, không xức dầu thơm, không mê ca hát văn nghệ, không ham thích nơi sang trọng, không đặt nặng việc xây chùa to tượng lớn, không xem nặng tiền bạc, etc...
- cách hành xử: tác phong (trang nghiêm hay tất bật?), cách ăn nói (nhẹ nhàng hay to tiếng?), cách ngồi, cách ăn uống, etc...
- dung mạo: gương mặt khả ái, ánh mắt từ bi, sắc mặt hồng hào, nụ cười đôn hậu, dáng đi khoan thai, con người tỏa ra một từ trường, v.v.... Tuy nhiên yếu tố dung mạo đòi hỏi một quá trình tu tập lâu dài (thì tâm mới hiện ra tướng). Vì thế khi các tăng ni còn trên con đường tu tập thì có thể yếu tố này chưa chính xác để nhận định.
* Hỏi: Khi tôi cúng dường tứ vật dụng cho người tu sĩ để người này đi giáo hóa, thì đó có phải là tôi làm "pháp thí" gián tiếp hay không?
- Đáp: Trong trường hợp như trên, chúng ta đang thực hành Tài thí, hay có thể dùng từ "Hộ pháp", nghĩa là tạo điều kiện cho người tu sĩ làm pháp thí. Cần lưu ý rằng khi làm Pháp thí, nghĩa là giảng cho người khác hiểu những chân lý, thì có giá trị lâu dài về tâm linh (vì giúp người phát hay trí tuệ), trong khi Tài thí chỉ giúp người trong một thời gian ngắn nên giá trị có giới hạn.
Tuy nhiên chúng ta cũng không nên cho rằng làm Pháp thí thì được phước báu nhiều nhất mà xem nhẹ Tài thí và Vô úy thí.
Như Chiếu
(Tổng kết Thảo luận Đạo tràng Montreal)