TẦM TỨ và Pháp KHÔNG NÓI
Định Nghĩa Tầm Và Tứ
1) Vitakka: Người Trung hoa dịch là Tầm. Nguyên gốc từ này có nghĩa: sự suy tư, ngẫm nghĩ, lý luận, lý lẽ, suy nghĩ; tương đương tiếng Anh: pondering, reflection, reasoning, argument, thinking, directed thought. Tầm = sự hướng tâm đến đối tượng (directed thought).
2) Vicāra: Trước kia người Trung hoa dịch là Quán, hiện nay dịch là Tứ. Nguyên gốc từ này có nghĩa: sự dò xét, quan sát, tư duy biện luận, cân nhắc; tương đương tiếng Anh: examination, investigation, discursive thinking, deliberation. Tứ = duy trì sự hướng tâm (dán tâm) đến đối tượng (sustained thought). Tứ có liên hệ đến yếu tố thời gian (duration, vài sát na tối thiểu).
Theo kinh Tiểu Phương Quảng: “Trước phải có Tầm và Tứ, sau mới có lời nói” (ở đây chỉ nói chung là “lời nói” không có phân biệt nói ra lời, nói thầm, hay đối thoại thầm lặng. Vì có trước sau: trước có A, sau có B cho nên A không phải là B, mà có thể nói: B là sản phẩm của tiến trình A).
Đứng trên mặt thực hành Thiền, ta thấy - sản phẩm sau cùng của Tầm và Tứ thực sự là "tâm ngôn” (mental chatter) hay "sự nói thầm" (muttering) trong não. Bởi vì toàn bộ sự hướng tâm hay dán tâm trên đối tượng sẽ đưa đến sự nói ra lời hay “sự nói thầm trong não.” Đây là nghĩa “đằng sau” của thuật ngữ Tầm và Tứ.
Vài ghi nhận:
1. Cũng như với hai cặp: thân hành và ý hành, tầm và tứ luôn luôn đi một cặp, không bao giờ đi riêng lẻ.
- Không bao giờ có hơi thở ra mà không có hơi thở vô.
- Không bao giờ chỉ có thọ mà không có tưởng.
2. Trong pháp Không Nói:
- Dùng lời nói “Không Nói” để dẫn tâm.
- Đối tượng của Tâm là “trạng thái Không Nói”.
- Có Tầm, tức là có sự hướng tâm tới “trạng thái Không Nói”.
- Có Tứ, tức là có duy trì sự hướng tâm nầy đến “trạng thái Không Nói”
Nếu hành giả thực hành đúng, có kinh nghiệm trực tiếp đối với trạng thái “Không Nói” thì có thể nhận ra như sau:
“Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là trạng thái Không Nói” (so với trạng thái nói thầm và đối thoại thầm lặng liên miên từ chủ đề này sang chủ đề kia)
Hành giả thực hành như vậy nhiều lần, tức là Tầm và Tứ liên tục về trạng thái KN (Không Nói) sẽ làm cho nhận thức KN trở nên cô đọng. Khi nhận thức cô đọng về trạng thái KN được thiết lập, hành giả có thể gợi lại và an trú trong trạng thái KN một cách không khó khăn và không mệt nhọc.
Ghi chú: Hành giả nên sử dụng câu in đậm “Đây là an tịnh, đây là thù thắng, tức là trạng thái Không Nói” để giúp thiết lập nhận thức cô đọng mau chóng hơn, và hiệu quả hơn.
Nhận Định Tổng Quát Về Tầm Và Tứ.
Tầm Tứ trên căn bản đối với người sơ cơ là Thiện Pháp. Nó là hai chi trong năm Thiền chi (Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm). Nó là phương tiện học tập cho bậc Hữu Học, vì nếu không có chú tâm (tầm) không có quan sát (tứ) thì làm sao học hỏi vấn đề gì được?
Chú tâm, quan sát các Pháp để làm gì? - Để nhận ra Tam Pháp Ấn. Một khi Tầm Tứ thiện xảo, Tam Pháp Ấn trở thành nhận thức cô đọng, thì tầm tứ không còn cần thiết nữa! Khi đó tầm tứ sẽ trở thành cái gai:
(Trích Kinh Tăng Chi Bộ trang 877).
“Lành thay, lành thay, này các Tỷ-kheo. Trả lời như các đại đệ tử đã trả lời, là trả lời một cách chơn chánh. Này các Tỷ-kheo, “Tiếng ồn là gai cho Thiền”, đã được Ta nói như vậy. Này các Tỷ-kheo, có mười loại cây gai này. Thế nào là mười?
- Với người ưa thích viễn ly, ưa thích hội chúng là cây gai.
- Với người chuyên chú tu tập tướng bất tịnh, tu tập tịnh tướng là cây gai.
- Với người phòng hộ các căn, đi xem văn nghệ trình diễn là cây gai.
- Với người sống Phạm hạnh, thân cận với phụ nữ là cây gai.
- Với người chứng Thiền thứ nhất, tiếng ồn là cây gai.
- Với người chứng Thiền thứ hai, tầm tứ là cây gai.
- Với người chứng Thiền thứ ba, hỷ là cây gai.
- Với người chứng Thiền thứ tư, hơi thở là cây gai.
- Với người đã đạt được Diệt thọ tưởng định, tưởng và thọ là cây gai.
- Tham là cây gai. Sân là cây gai. Si là cây gai.
Này các Tỷ-kheo, hãy sống không phải là cây gai. Này các Tỷ-kheo, hãy sống rời khỏi cây gai. Này các Tỷ-kheo, hãy sống không phải là cây gai và rời khỏi cây gai. Này các Tỷ-kheo, không có cây gai là bậc A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, rời khỏi cây gai là bậc A-la-hán. Này các Tỷ-kheo, vị không có gai và rời khỏi cây gai là bậc A-la-hán…”.
Như vậy, giống như cây gậy chỉ có giá trị với người bị đau chân, giá trị của Tầm Tứ tùy thuộc vào trình độ tu chứng của mỗi hành giả. Đối với người sơ cơ và người đang tu tập Thiền thứ nhất, Tầm Tứ là thiện pháp, là thiền chi, nhưng với người đã thiện xảo thiền thứ hai, Tầm Tứ là cây gai cần phải nhổ bỏ.
Vai Trò Của Tầm Tứ (đối với người chưa tu và người đang tu thiền thứ nhất)
Ví như vai trò của tay phải tay trái là giúp cho thân ta nắm bắt và sử dụng các đồ vật chung quanh (các Sắc Pháp) thì tầm và tứ giúp cho tâm ta nắm bắt các đối tượng trừu tượng và siêu việt (các Danh Pháp). Tóm lại vai trò của tầm tứ là giúp ta nắm bắt đối tượng. Như người lực sĩ mạnh khi túm cổ một kẻ ốm yếu hơn; kẻ ấy không thể vùng vẫy, cũng vậy, với người thiện xảo tầm và tứ, người đó không bị mất chủ đề Định. Khi Tầm Tứ được tu tập được làm cho sung mãn trên một chủ đề nào đó, chủ đề đó sẽ trở thành nhận thức cô đọng và nội tại, khi đó Tầm Tứ trở thành Niệm. Nếu chủ đề là Tứ Niệm Xứ và được tu tập để chế ngự tham ưu ở đời thì lúc đó gọi là Chánh Niệm.
Cách tu tập có Tầm có Tứ.
Vì Tầm Tứ ví như tay trái tay phải của tâm để nắm bắt đối tượng (Danh Pháp), cách dễ nhất là sử dụng ngôn ngữ tên gọi (Danh) đễ dẫn tâm tới đối tượng: Đây gọi là dùng ngôn ngữ hay lời nói để dẫn tâm tới đối tượng.
Thí Dụ: Ghi 2 từ "Không Nói" lên giấy rồi dùng mắt nhìn và có thể đọc thầm trong đầu hai chữ đó: Khi đó, nội dung trạng thái KN xuất hiện, hành giả cần quan sát kỹ (tứ) để xác nhận với tâm rằng trạng thái KN này siêu vượt và thù thắng hơn trạng thái nói thầm lan man rất nhiều.
Tâm rất bén nhạy, nó luôn tự động an trú hỷ lạc, nếu nó kinh nghiệm được trạng thái KN vi diệu và thù thắng hơn trạng thái nói thầm, nó sẽ muốn an trú ở đó. Hành giả chỉ cần tầm tứ trở đi trở lại nhiều lần cho nó quen dần là đủ.
Nguyên Lý Căn Bản Của Không Tầm Không Tứ
Muốn tu tập không Tầm không Tứ cần thấu triệt nguyên lý căn bản này. Nếu không sẽ vô ích.
Tầm Tứ là nắm bắt đối tượng, không Tầm không Tứ là buông đối tượng. Nhưng mà: "Biết nắm mới biết buông". Chưa biết Nắm thì làm sao Buông? Vì không có gì để Buông.
Tóm lại, khi đối tượng chưa trở thành nhận thức cô đọng, chưa nội tại, chưa an trú, thì không nên tu không Tầm không Tứ, mà nên trở lai tu tập có Tầm và có Tứ.
Ở đây, cần cho một ví dụ minh họa:
Người đạp xe = hành giả
Hai bàn đạp = Tầm và Tứ
Đạp và còn chống đất = Sơ Thiền
Đạp liên tục hay còn chạm đất = tầm tứ xen kẽ ở Sơ Thiền (Có tầm có Tứ)
Ngưng đạp và biết chạy bằng trớn = Nhị Thiền
Lướt trớn và ngưng đạp = An trú không tầm không tứ ở Nhị Thiền
Khi đạp liên tục cần nhiều cố gắng, tập trung mà tốc độ lại bị giới hạn. Khi đủ trớn rồi mới khám phá ra sự trì trệ, sự mệt nhọc do đạp liên tục không ngưng nghỉ. Lúc này hành giả sẽ biết giữ thăng bằng, khi nào cần đạp, khi nào lướt trớn.
Ghi nhận:
- Không thể có “lướt trớn” nếu không biết “dùng 2 bàn đạp”.
- Không thể “lướt trớn” khi chân còn chạm “mặt đất” hay còn đạp liên tục.
- Lướt trớn chỉ xảy ra trên một tốc độ nhất định (khi nhận thức cô đọng).
- Lướt trớn vi diệu và thù thắng hơn đạp liên tục.
- Sự chuyển từ đạp sang lướt trớn rất tự nhiên, nhưng phải trên một tốc độ nhất định (chống lực ma sát) thì mới xảy ra.
- Không đạp 2 bàn đạp (pedals) (2 bàn đạp = tầm tứ) sẽ bị ngã (tức là mất chủ đề).
- Có ngã (mất chủ đề) cũng không sao vì ít có ai tập đạp xe đạp mà không bị ngã, quan trọng là biết vực dậy để đạp tiếp sau mỗi lần ngã.
- Khi chỉ đạp 1 bàn đạp (hoặc Tầm hoặc Tứ) thì dễ ngã và tốn sức lắm. Hầu như khó thể được cho người mới bắt đầu tập.
- Nắm chặt tay lái, gồng cứng cơ bắp (gá ý thêm nhiều chỗ) chỉ gây thêm mệt nhọc và chướng ngại.
Tóm lại, hành giả muốn nhập nhị thiền, thì cần phải thiện xảo Tầm và Tứ thì mới biết được thế nào là không Tầm không Tứ. Khi đó hành giả sẽ kinh nghiệm trạng thái “nội tĩnh nhất tâm” một trạng thái “lướt trớn” không khó khăn không mệt nhọc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Xin hồi hướng công đức đến khắp tất cả.
Đúc kết lại các buổi hội thoại qua điện thư giữa Tuệ Huy & Tuệ Chiếu trong mùa dịch Covid-19.
Ngày 10 tháng 6 năm 2020.
Tuệ Chiếu