Saṃsāra Vòng Xoáy Luân Hồi Một Ẩn DụThâm SâuVi Diệu để Hiểu Thấu Đáo về Duyên Khởi
Tuệ Huy – Tô Đăng Khoa
Dẩn Nhập
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi (Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình được duy trì sự tồn tại của chính nó bởi các lực tương duyên và đối nghịch. Samsara nghĩa đen là vòng nước xoáy được sử dụng để nói đến tiến trình sanh tử luân hồivô lượng kiếp của một chúng sanh. Tiến trình này có thể được ví nhưhiện tượng tự nhiên của một vòng xoáy trong một vùng nước rộng lớn.
Ẩn dụvi diệu này minh họa cách mà các động lực khác nhau duy trì sự tồn tại của samsara. Bằng cách hiểu rõ những động lực này, người hành giả có thể nhận ra các điểm quan trọng để ứng dụng trong việc tu tập của chính mình một cách hiệu quả hơn, rõ ràng thấu đáo hơn, cuối cùng dẫn đến sự giải thoát (Nirvana).
Bài tiểu luận này sẽ khảo sát ẩn dụthâm sâuvi diệu này của Đức Phật để rút ra những nhận thức cô đọng và quan trọng cho hành giả khi ứng dụng vào việc tu học cho chính mình. Sự hiểu biết thấu đáo này sẽ giứp hành giảnhận ra vì sao giải phápSabbasankharasamatho (sự tịnh chỉ tất cả hành) được Thế Tôn trình bày rất chi li và có hệ thống trong kinh Niệm Xứ và Kinh Anapanasati chính là giải pháp tối ưu cho tình trạng bị ném vào samsara của tất cả chúng sanh.
Khảo sát Vòng Xoáy và Các Động Lực Của Nó
Vòng xoáy, với chuyển động cuộn tròn, tượng trưng cho vòng luân hồiliên tục của samsara. Chuyển động này được duy trì bởi các dòng nước đối lập, nuôi dưỡng và làm gia tăng vòng xoáy, tạo ra ảo tưởng về một trung tâm—một điểm tập trung của hoạt động, dần dần phát triển thành khái niệm về tự ngã theo thời gian. Sự tương tác của các lực này và ảo tưởng mà chúng tạo ra có thể được hiểu bằng cách khảo sát về các lực duy trì hai vòng xoáy: vòng ngoài cùng và vòng trong cùng của toàn bộ vòng xoáy này.
Động Lực phía ngoài cùng của vòng xoáy: Vô Minh và Tham Ái
- Vô Minh (Avijja) và Tham Ái (Tanha) là những lực bên ngoài duy trì vòng xoáy của samsara. Những lực này đại diện cho các thói quensâu xa được tích lũy qua nhiều kiếp sống, tạo thành các dòng nước mạnh mẽ, giữ cho vòng xoáy luôn vận động.
- Vô Minh (Avijja): Đây là lực đẩy về phía trước, khiến con người tạo nghiệp thông qua sự hình thành của các hành (sankharas). Vô minh che mờ chúng sinh khỏi thực tướng của thực tại—vô thường, khổ, và vô ngã—khiến họ hành động theo cách tiếp tụcduy trì vòng luân hồi. Nó là lực đẩy thôi thúccon người tạo tác qua thân hành, ý hành, và khẩu hành
- Tham Ái (Tanha): Tham ái là lực kéo ngược về phía sau, lôi kéo con ngườitrở lại trải nghiệm những khoái lạc phù du của sự tồn tại. Nó đại diện cho sự dính mắc vào các lạc thọ, sự tồn tại, và cả sự không tồn tại, làm củng cố vòng luân hồi bằng cách tạo ra khát vọng tiếp tụctham gia vào samsara.
Những lực này cùng nhau duy trì vòng xoáy, tạo ra một dòng chảy mạnh duy trì và thúc đẩy quá trình samsara liên tục. Theo thời gian, sự tương tác liên tục giữa vô minh và tham áinuôi dưỡngảo tưởng về một trung tâm—một tự ngã trường tồn và độc lập—dường như tồn tại ở trung tâm của mọi kinh nghiệm và hành động.
Động Lực Bên Trong Cùng của Vòng Xoáy: Thức và Danh-Sắc
Ở trung tâm của vòng xoáy, các động lực của Thức (Viññana) và Danh-Sắc (Nama-rupa) đại diện cho các hoạt độngquay cuồng bên trong. Những quá trình này diễn ra với tốc độ cực kỳ nhanh chóng, hình thành nên sự tương tác nền tảng duy trì trải nghiệm tức thời và luôn thay đổi của sự tồn tại.
- Thức (Viññana): Đây là sự nhận thức phát sinh do các hành và các tiếp xúcgiác quan. Nó là dòng chảy liên tục của nhận thức, tương tác với danh-sắc để tạo ra trải nghiệm chủ quan của sự tồn tại.
- Danh-Sắc (Nama-rupa): Đây là các yếu tốtâm lý và thể chấtcung cấp cấu trúc để thức hoạt động. Danh-sắc và thức tương duyên với nhau; thức không thể hoạt động mà không có khung cấu trúc do danh-sắc cung cấp, và danh-sắc không thể tồn tạinếu không có thức.
Sự tương tác nhanh chóng giữa thức và danh-sắc hình thành nên sự quay cuồng bên trong của vòng xoáy, duy trìcảm giác về tự ngã và sự tồn tại trong từng khoảnh khắc. Hoạt độngcốt lõi này duy trìnhận thứctức thời về sự tồn tại, trong khi các động lực bên ngoài của vô minh và tham áiduy trì vòng luân hồi rộng lớn hơn của samsara.
Ảo Tưởng Về Một Trung Tâm: Khái Niệm Sơ Khai Về Tự Ngã
Sự quay cuồngliên tục của vòng xoáy, được điều khiển bởi cả các động lực bên ngoài và bên trong, tạo ra ảo tưởng về một trung tâm—một điểm tập trung của hoạt động dường như là "tự ngã."
Khái niệm sơ khai về một cái gọi là “trung tâm” chính xác là vì nó có nhiều hoạt độngtrao đổi (thức và danh sắc với môi trường bên ngoài). Ví như ở trung tâm thành phố thì có nhiều hoạt độngtrao đổi và mua bán hơn là ở nông thôn. Nói cách khác, một khoảng không gian được gọi là trung tâmchính xác là vì khoảng không gian đó có nhiều hoạt động hơn là những khoảng không gian bên cạnh. Cũng vậy ta gọi trung tâm vòng xoáy vì tại đó có nhiều hoạt động hơn khối nước lân cận. Theo thời gian, ảo tưởng này trở nên cố định, dẫn đến niềm tin vào một "tôi" trường tồn, độc lập, tồn tại riêng biệt với thế giới. Khái niệm về tự ngã này khởi đi từ khái niệm sơ khai về một “trung tâm” nhưng càng ngày càng trở nên rất sâu sắc và rốt ráo hình thành khái niệm Ngã (cái tôi), củng cố thêm vòng luân hồi của samsara khi chúng sinh hành động để bảo vệ và duy trìảo tưởng về tự ngã này.
Sabbasankharasamatho: Sự Tịnh Chỉ Tất Cả Hành, Giải Pháp Tối Ưu cho tình trạng bị ném vào Samsara
Sabbasankharasamatho đề cập đến sự tĩnh lặng hoặc sự đình chỉ của tất cả các hành (sankharas). Quá trình này là trọng tâm của con đườnggiải thoát trong thực hànhPhật giáo, vì nó dẫn đến sự tiêu tan các điều kiệnduy trì vòng luân hồi, cuối cùng dẫn tới sự chứng đắc Niết-bàn. Việc làm tĩnh lặng tất cả các hành liên quan đến việc giảm dần và cuối cùng là sự đình chỉ của các hoạt độngtâm lý và vật lý khác nhau, như hơi thở, suy nghĩ, cảm giác, và nhận thức. Quá trình này có thể được tu tập một cách có hệ thống thông qua thực hànhTứ Niệm Xứ (Satipatthana) hoặc Anapanasati (Niệm Hơi Thở).
Quá Trình Làm Tĩnh Lặng Có Hệ Thống Qua Pháp Thiền TứNiệm Xứ
Quá trình làm tĩnh lặng sabbasankharasamatho diễn ra theo các giai đoạn, mỗi giai đoạn liên quan đến một lớp hoạt độngtâm lý và vật lý sâu hơn. Quá trình làm tĩnh lặng này có thể được tóm tắt như sau:
1. Làm Tĩnh Lặng Hơi Thở (Hơi Thở Ra/Vào)
- Hơi thở là hành dễ tiếp cận nhất và cơ bản nhất của mọi hành. Thực hành bắt đầu bằng việc tập trung vào hơi thở ra và vào, quan sát nó với chánh niệm. Khi sự tập trung sâu sắc hơn, hơi thởtự nhiên trở nên tinh tế và nhẹ nhàng hơn, dẫn đến một trạng thái tĩnh lặng. Cuối cùng, hơi thở có thể trở nên tinh tế đến mức dường như ngừng lại, điều này biểu thị sự tĩnh lặng của hành vật lý cơ bản nhất.
- Giai đoạn này thường được tu tập thông qua Anapanasati (Niệm Hơi Thở), nơi mà người hành giả bắt đầu bằng việc quan sáthơi thở và dần dần làm sâu sắc sự tập trung cho đến khi hơi thở trở nên tĩnh lặng một cách tự nhiên.
2. Làm Tĩnh Lặng Tầm và Tứ (Vitakka và Vicara)
- Khi hơi thở tĩnh lặng, các quá trình tư duy của tâm—tầm (vitakka) và tứ (vicara)—cũng bắt đầu tĩnh lặng. Đây là các hoạt độngtâm lý hướng tâm trí đến một đối tượng và duy trì sự chú ý vào đối tượng đó. Ở giai đoạn đầu của thiền, những suy nghĩ này có thể khá năng động, nhưng khi sự tập trung sâu sắc hơn, chúng tự nhiêngiảm bớt.
- Trong thực hànhTứ Niệm Xứ (Satipatthana), chánh niệm được áp dụng đối với tâm, quan sát những suy nghĩ này và cho phép chúng lắng đọng. Khi tâm trở nên tập trung hơn, sự cần thiết của tầm và tứ giảm bớt, dẫn đến trạng thái tĩnh lặng nội tại.
3.Làm Tĩnh Lặng Thọ (Vedana)
- Thọ (Vedana) đề cập đến các cảm giác và cảm thọ phát sinh từ sự tiếp xúc với các giác quan. Chúng có thể là lạc thọ, khổ thọ, hoặc xả thọ. Khi chánh niệm sâu sắc hơn, người hành giảquan sát các cảm thọ này mà không dính mắc hoặc phản ứng, dẫn đến sự tĩnh lặng dần dần của chúng.
- Thông qua việc áp dụngchánh niệm có hệ thống đối với cảm thọ (niệm xứ thứ hai trong Satipatthana), người hành giảnhận rabản chấtvô thường và duyên sinh của thọ. Tất cả thọ dụ như bọt nước có sanh ắt có diệt, vậy ta hãy kham nhẫnquan sát sự sanh sanh diệt diệt các thọ mà không tác ý tạo nên thọ mới, hãy quan sát sự sanh diệt đang diễn ra của các thọ cũ. Sự hiểu biết này giúp nới lỏng sự dính mắc và phản ứng, cho phép các cảm thọtự nhiên lắng đọng. Vì sao? Vì chính sự dính mắc và phản ứng sẽ tạo nên thọ mới và làm gián đoạn nổ lực làm tỉnh lặng các thọ mà hành giã đang nhắm tới thực hiện
4. Làm Tĩnh Lặng Tưởng (Sanna)
- Tưởng (Sanna) đề cập đến sự nhận biết hoặc nhận thức về các đối tượng, liên quanmật thiết đến ký ức và sự nhận diện. Khi tâm trở nên tinh tế hơn, ngay cả những nhận thứctinh tế phát sinh trong thiền cũng bắt đầu tĩnh lặng. Người hành giả bắt đầu nhìn thấy qua ảo tưởng của những nhận thức này, nhận rabản chấtvô thường và được xây dựng của chúng.
- Niệm xứ thứ tư trong Satipatthana—chánh niệm về các pháp—bao gồm sự quan sát tưởng. Khi chánh niệm và sự tập trung sâu sắc hơn, các nhận thức trở nên ít rõ ràng hơn và cuối cùng biến mất, dẫn đến một trạng thái tĩnh lặng sâu sắc.
Tứ Niệm Xứ và Anapanasati là Phương Pháp có hệ thống để thực hiện Sabbasankharasamatho
Việc làm tĩnh lặng có hệ thống tất cả các hành liên quanmật thiết đến thực hànhTứ Niệm Xứ và Anapanasati:
- Tứ Niệm Xứ (Satipatthana):
- Tứ Niệm Xứcung cấp một khung sườn toàn diện để làm tĩnh lặng và hiểu biết tất cả các khía cạnh của kinh nghiệm. Các niệm xứbao gồm:
1. Niệm Thân (Kayanupassana): Bắt đầu với hơi thở và các tư thế của thân, người hành giả phát triển chánh niệm về hình thứcvật lý, dẫn đến sự tĩnh lặng của các hành vật lý.
2. Niệm Thọ (Vedanupassana):Quan sát các cảm thọ khi chúng phát sinh, người hành giả phát triển sự hiểu biết về bản chấtvô thường của chúng, dẫn đến sự tĩnh lặng của chúng.
3. Niệm Tâm (Cittanupassana): Tập trung vào trạng tháitâm trí, người hành giảnhận thức được các hành tâm lý như suy nghĩ, dẫn đến sự tĩnh lặng của các hoạt độngtâm lý này.
4. Niệm Pháp (Dhammanupassana):Quan sát các pháp, hoặc các hiện tượngtâm lý, người hành giảnhận thức được bản chất của các nhận thức và các hành vitinh tế khác, dẫn đến sự đình chỉ của chúng.
- Niệm Hơi Thở (Anapanasati):
- Anapanasati đặc biệtnhấn mạnh sự làm tĩnh lặng của hơi thở, điều này tự nhiên kéo dài đến sự làm tĩnh lặng của tâm trí và các hành. Thực hành này được chia thành bốn phần, tương ứng với tứ niệm xứ, và dẫn đến các trạng thái định (samadhi) và tuệ (vipassana) sâu sắc hơn.
- Việc tập trung có hệ thống vào hơi thở trong Anapanasati cung cấp một con đườngrõ ràng để làm tĩnh lặng các hành vật lý và tâm lý, dẫn đến sự tĩnh lặng cần thiết để chứng đắc Niết-bàn.
Sự Đình Chỉ Của Vòng Xoáy qua Sabbasankharasamatho = Chứng Đắc Niết-Bàn
Khi người hành giả làm tĩnh lặng một cách có hệ thốnghơi thở, suy nghĩ, cảm thọ, và nhận thức thông qua các thực hành này, hoạt động xoáy của vòng xoáy chậm lại và cuối cùng ngừng hẳn. Sự đình chỉ của tất cả các hành (sabbasankharasamatho) dẫn đến sự tiêu tan của ảo tưởng về một sự tồn tại tự ngã. Khái niệm về tự ngã, từng được duy trì bởi những hành này, phai mờ, để lại một trạng thái tĩnh lặng và trong sáng sâu sắc. Ví như khi khối nước không còn các dòng đối lưu, khi khối nước được tịnh chỉ, không thể chỉ ra chổ nào là “trung tâm” của một khối nước hoàn toàn tĩnh lặng, nơi nơi chốn chốn đều hoàn toànbình đẳng. Cũng vậy khi Sabbasankharasamatho được thực thi, khái niệm ngã tiêu tan vì không thể chỉ ra.
Trạng thái này, tương tự như một vùng nước yên tĩnh giữa đại dương, ảo tưởng về một trung tâm hay tự ngã không còn tồn tại. Sự đình chỉ của vòng xoáy biểu thị sự chứng đắc Niết-bàn, nơi mà mọi hoạt độngduyên khởi đều chấm dứt, và tâm tríđược giải thoát khỏi những lực lượng ràng buộc của samsara. Sự tĩnh lặng tối thượng này là đích đến cuối cùng của con đườngPhật giáo, nơi mà người hành giảđạt đượcsự giải thoát và chấm dứt khổ đau.
Kết Luận
Vòng xoáy luân hồi của samsara, được duy trì bởi các lực đối nghịch của vô minh và tham ái ở mức độ bên ngoài, và bởi thức và danh-sắc ở mức độ bên trong, tạo ra ảo tưởng về một tự ngã tồn tại ở trung tâm của mọi kinh nghiệm. Bằng cách hiểu và can thiệp vào các động lực này thông qua thực hành có hệ thống sabbasankharasamatho, người hành giả có thể phá vỡ vòng luân hồi, cuối cùng làm tiêu tanảo tưởng về tự ngã và đạt đượcsự giải thoát. Con đường đến sự giải thoát này là qua sự đình chỉ của tất cả các hành, dẫn đến sự tĩnh lặng và an lạc của Niết-bàn, nơi mà khái niệm về tự ngã không còn giữ bất kỳ quyền lực nào.
Kính chúc quý hành giảtinh tấn dõng mãnh trong hành trình đi về Sabbasankharasamatho: Sự tĩnh lặng tối thượng, đích đến cuối cùng của con đườngPhật giáo, đạt đượcgiải thoát và chấm dứt khổ đau.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính dâng và hồi hướngsức khỏe và trí tuệ tâm linh cho Ba Má nhân mùa Vulan 2024.
Tuệ Huy- Tô Đăng Khoa ________________________________________________________ video: 20240819 Tuệ Huy BÀI 12 Tổng Quan Về LÝ DUYÊN KHỞI https://youtu.be/-SY7kuj03lg
Kính chia sẻ với quý anh chị CÁC TÀI LIỆU HỌC TẬP BÀI 12: ngày 19 tháng 8, 2024:
Tuệ Huy trình bày chủ đề: Tổng Quan về LÝ DUYÊN KHỞI và PHÁP DUYÊN SANH
- VIDEO /
- SLIDES bài giảng /
- và bài kinh liên quan đến bài học.
Tuần này đại lễ Vu lan, tôi lên chùa lạy Phật, cầu nguyện cho mẹ cha, nhận một bông hồng đỏ mà sao thương nhớ mẹ!. Vì má vẫn mãi trong con. Có mất đâu mà cài hoa màu trắng….
Tình yêu mình dành cho một người, cuối cùng thật ra chỉ là tình yêu mình dành cho chính mình. Sự thật này, rất khó chấp nhận, nhưng sẽ giúp mình giảm niềm đau, khi không được, hoặc đã mất, người yêu.
Cuội nói thêm:
Xin thưa : tôi không phải người
Chỉ là “ bóng” giống ! dưới Đời đặt tên
Hạ Giới mơ mộng cõi Trên
Thấy mây “giông giống”, đặt tên đủ hình !
Thực sự Trúc Lâm Yên Tử chỉ là một giáo đoàn Phật Giáo nhập thế, đoàn ngũ hóa tu sĩ và quần chúng, khuyến khích tu THẬP THIỆN, do Trần nhân Tông sáng lập, tồn tại được hơn 30 năm dưới sự điều khiển của 3 vị gọi là Trúc Lâm TAM TỔ.
Dường như chiếc lá cứ mặc tình vui chơi. Nó thả mình theo chiều gió. Lúc thấp lúc cao. Khi tạt qua bên phải, khi sang trái, khi lên khi xuống. Có lúc nó rà rà mặt đất. Có khi nó lượn lờ qua lại. Sao mà nó thảnh thơi đến thế?
Hằng ngày trâu và tôi. Miên mật dùng Pháp Thở. Để tu dưởng thân tâm. Luôn sống trong Chánh Niệm. Gột rửa Tham, Sân, Si. Quay lại với chính mình. Thân và Tâm an trú. Bây giờ và Ở đây...
Cái Già nay đến thật gần
Nó đang đột nhập vào thân ta rồi
Ta hỏi Ta : có bồi hồi ?
Ta trả lời : Tuyệt vời lắm thay !
Nếu sợ, già có hết ngay?
Nếu không, thì cứ ngó ngay”Cái Già “
Không biết mình đang cẩn thận trong việc đi đứng, ăn uống, nghĩ suy là VÔ MINH. Biết rõ mình đang cẩn thận trong việc đi đứng, ăn uống, nghĩ suy là TỈNH THỨC. Tôi nghĩ Phật đã dạy chúng ta những điều đơn giản đó trong bài kinh Tứ Niệm Xứ. Và như vậy là ta Tu theo Phật.
Phần trình bày hôm nay, cô tạm xếp loại cho gọn những ý nghĩa khác nhau của từ Dhamma. Phần này là cô xếp loại chứ không có trong kinh sách nào hết, thành ra quý vị cứ nghe rồi suy gẫm lại. Qua bài giảng này, cô muốn giới thiệu thêm với quý vị là ở trong đời sống hàng ngày của mình, mình có thể nhận ra tất cả những sự thật trong cuộc đời bằng cách là quan sát vào mỗi hiện tượng thế gian mà mình tiếp xúc để nhận ra những lời nhắc nhở của Đức Phật.
Nhìn Ni Sư đi đường quá xa chỉ để dạy đệ tử … không chịu đi tìm thầy học đạo, tôi tự nghĩ sao chúng ta không qua Tổ đình học để Ni Sư khỏi lặn lội gian nan?
Nhờ TỈNH THỨC nên không dính mắc vào bất cứ điều gì xảy ra trong tâm và quanh ta, Tâm Thức tự yên lặng, thuần nhất với vũ trụ Tâm, không do tạo tác mà có, nên vô ngã, đó là Chánh Định của Đạo Phật; định bất xuất bất nhập mà Lục Tổ Huệ Năng xiển dương. Đạo Phật là tỉnh thức và vô ngã.
Gốc rễ của khổ đau nằm ở việc tìm kiếm sự thỏa mãn lâu dài từ những thứ không thể cung cấp sự thỏa mãn lâu dài.
Sự thấu hiểu này không chỉ là bước đầu tiên trong hành trình thoát khổ mà còn là chìa khóa mở ra cánh cửa giải thoát, dẫn lối đến sự bình an và giác ngộ.
Nếu như ta tâm niệm 5 điều này mỗi ngày, chắc chắn ta sẽ luôn là một công dân tốt, một phật tử thuần thành. Tâm niệm 5 điều này mỗi ngày chắc chắn sẽ giúp ta "thành công" trên con đường tu tập. Hóa ra "bí quyết" của Đức Thế tôn không quá khó, có phải không? Các bạn thử xem nhé!
Trong tất cả mọi sắc thái mọi hoàn cảnh, mọi môi trường của đời sống qua thân, thọ, tâm, pháp đều có một cách thực hành giống nhau: thứ nhất tuệ tri như thật, thứ hai quán sát, khai triển cái tâm mình rộng ra là mình như vậy, người khác cũng như vậy và tất cả cái đang là đó đều sanh diệt, sanh diệt để không dính mắc với cái đang là và thứ ba là an trú chánh niệm như vậy, biết rõ như vậy là như vậy thì tâm mình dừng. Cho nên toàn thể ba bước đều sử dụng quán, định, tuệ hay là giới, định, tuệ cũng nằm trong con đường tu theo Kinh niệm xứ...
Tu không phải để "ĐƯỢC" mà là giúp ta "MẤT"..... Có chăng, cái "ĐƯỢC" duy nhất mà việc tu tập mang lại cho ta, đó là có được cái Tâm An - viên ngọc quý mà không bạc tiền nào có thể mua được.
Chuyển đổi tâm, đó là trí tuệ và đó là con đường của Thiền Quán. Tuy tạm nói là Thiền Quán nó cũng là Thiền Tuệ mà cũng là Định và cũng là Giới nữa, khi mình biết sai mình chuyển đổi tốt hơn thì đó là Giới rồi. Khi mình thiên vị, mình ghét ai thì tâm mình không có khách quan, mình chuyển đổi lại cái thấy khách quan thôi thì đó là Vipassana là thiền Tuệ. Khi mình khởi ra cái ý muốn nói hay muốn làm một việc gì không đúng, mình dừng lại liền thì cái đó là Định rồi...
Tuệ Huy trình bày chủ đề: NỘI DUNG chính của TỨ THÁNH ĐẾ: 3 CHUYỂN - 12 HÀNH TƯỚNG
Powerpoint/SLIDES bài giảng - VIDEO - và bài kinh liên quan đến bài học
Làm việc tốt và chỉ nhắm đến bào mòn cái Ta và đoạn trừ cái Tham. Và sau cùng, tu Phước mà thiếu tu Huệ, thiếu thực tập thiền định theo thánh giáo Như Lai, thì mãi mãi chìm đắm trong sanh tử.
Kiến thức này có ích lợi khi đọc vào tạng kinh Nikaya vì Đức Phật là bậc thầy về việc sử dụng các ẩn dụ để dạy cho chúng ta hiểu các khái niệm rất khó nắm bắt ví dụ như Samsara và Nibbana.
Tất cả đều do Nhân Duyên mà sanh khởi lên,
Chúng sẽ mau chóng dễ dàng cũng do Nhân Duyên mà đoạn diệt.
Tất cả phơi bày thật rõ ràng như thế như thế: Cái gì có bản chất sanh ra, cái đó có bản chất đoạn diệt!
Nhưng Xả này tồn tại.
Đây là pháp môn vô thượng căn tu tập.
Thiền trong Xuân hay Xuân trong Thiền. Tết đến, Xuân về... Rồi lại đi! Còn lại trong ta những ảnh hình... Năm nào cũng chỉ sống như thế, Biết đến bao giờ thoát được ra?
PHÁT LÒNG TỪ BI
Làm sao phát lòng TỪ BI ?
Để Từ Bi dẫn ta đi hết đường
Xin hãy luôn luôn, thường thường
Nhìn thú bị giết! Máu đương chang hòa!
Trước cảnh giết! Thú thét la!
Từ bi sẽ phát, nếu mà xót thương
Như một truyền thống: Kính mời Chư Tôn Thiền Đức,Thân mời quý Cô Bác, quý anh chị Thiền Sinh cùng Gia Đình và tất cả Thân Hữu cùng về
THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG
13071 Brookhurst St., Suite 197 - Garden Grove, CA 92843
10 giờ sáng ngày chủ nhật mùng 2 TẾT (nhằm 11 tháng 2, 2024)
chúng ta cùng nhau LỄ PHẬT, chúng ta cùng nhau MỪNG XUÂN MỚI.
Hoặc quý vị có thể tham dự trên ZOOM theo LINK
"Ý Như Vạn Sự"
Là tác Ý sâu để nhận ra cái tánh Như của Vạn Sự.
Là cho lối sống tùy duyên thuận pháp, thõng tay vào chợ giữa giòng đời,
Là cho phép vạn sự tự vận hành theo nguyên lý của chính nó,
Là vô ngã vì không có chủ ý mong muốn vạn sự theo ý của chính mình.
Có bạn, tôi đi giửa cuộc đời vững chải, thong dong, không bị gió đời đánh gục. Có bạn, tôi thêm sức mạnh đối diện cùng bệnh khổ. Có bạn vào giờ phút cuối đời, khi không có ai ngay cả những người tôi thương yêu nhất, không còn gì kể cả những gì tôi quý giá nhất, chỉ còn lại bạn cùng tôi đi qua cửa tử. Sẽ không có ai hết. Trừ bạn, bạn hiền của tôi.
Mùa xuân là khởi đầu, là hy vọng. Lời chúc đầu xuân đến với bạn vào những thời khắc chuyển giao một năm mới đều là những lời tốt đẹp. Chúc thành công, may mắn. Chúc mọi sự an lành. Chúc ước mơ thành hiện thực. Chúc phú quý đại lợi. Chúc an khang thịnh vượng. Và dễ thương nhất là lời chúc " Vạn sự như ý ".
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.