HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

THÔNG TRIỆT TTT023: TRƯỜNG CA KHÔNG THEO VỌNG

27 Tháng Mười Một 202010:09 CH(Xem: 4393)


Dâng lên Thầy, người đã mở tâm con

 TTT023 Truong Ca Khong Theo Vong TITLE

Thông Triệt

Bảy năm1 trời tu pháp,

"Biết vọng, ta không theo."

Nhưng vọng vẫn lẽo đẽo,

Theo con vượt núi, đèo 2,

Đến miền Bắc cheo leo,

Núi non trùng trùng điệp,

Cứ tiếp diễn "tâm tình,"

Chẳng phút giây lặng thinh.

Vui, buồn luôn thưa thỉnh,

Nghĩ, tính cứ lăng xăng,

Chẳng bao giờ chịu lặng;

Cứ khắn khít bên con,

Thì thầm luôn chẳng dứt.

x

Động tâm con cùng cực,

Tức mình con quát hỏi:

"Ngươi hãy nói cho ta,

Bổn lai ngươi hà xứ?

Xuất phát tự nơi nào?

Làm tâm ta lao xao,

Không vào được CHỈ3, ĐỊNH4?"

Nhưng vọng vẫn làm thinh,

Chẳng đáp, chẳng thưa trình.

Trái lại còn bướng bỉnh,

Cứ linh tinh khởi dậy:

Phải, quấy— chuyện đông, tây.

Buồn, vui muôn kỷ niệm,

Tiếp diễn nói đêm, ngày:

Tương lai và quá khứ,

Phải, trái cứ dằng dai.

"Hai bên"5 không ngừng nghỉ.

Hiện tại cứ luận suy:

Thiện, ác với chánh, tà,

Luân hồi với quả báo,

Lý đạo “luật trả, vay.”

Tù đày nay trả quả,

Do kiếp trước tạo ra

Ba nghiệp theo đường ác.

Đấy là luật nhân quả!

Chớ suy luận gần xa,

Chớ phiền hà thiên hạ,

Chớ trách cứ người ta,

Chớ kêu la than thở,

Chớ thắc mắc tại sao,

Chớ oán thù—cải tạo,

Chớ sầu, khổ, buồn, đau,

Chớ kêu gào đấu tranh,

Chớ canh cánh bên lòng,

Trời già sao bất công?

Phải thông suốt lý nghiệp:

Có nhân tất có quả,

Có trả tất đã vay.

Không vay làm sao trả?

Trời già không xét xử,

Nghiệp báo tự thân ta:

Bụng làm dạ phải chịu,

Không ai chiếu cố ta!

x

Giác ngộ đà hiểu thấu,

Nhưng sầu, khổ không tha.

Cứ tà tà khởi dậy,

Tạo ra muôn áng mây

Chấp trước thật dẫy đầy,

Hai bên không ngưng động.

Sóng thức luôn bủa vây.

Chân tâm đành mai một,

Bị nhốt trong túi da,

Nhường chỗ cho vọng ngã

Quậy phá khắp nơi nơi.

x

Đời tu thật cay đắng;

Đoạn trường nếu chẳng đến

Chẳng hiểu nổi bến mê,

Nằm kề bên bến giác.

Khi giác yếu hơn mê,

Tâm mê liền nổi dậy,

Thúc đẩy ngã-tư duy,

Suy nghĩ tính lăng xăng.

Trí năng luôn hoạt động,

Biển tâm thường dậy sóng,

Phiền não khó mong thoát.

Phật tánh làm sao đạt?

Giác ngộ làm sao thành?

Giải thoát rất mong manh!

Tái sanh là cái chắc!

Khi giác mạnh hơn mê,

Tự ngã biết lối về,

Không mê lầm nhân quả,

Không trách cứ thiên hạ,

Sao đày ta quá ác?

Lại phát tâm dõng mãnh,

Thực hành "tắt" suy nghĩ.

Để thành tựu Chỉ, Định,

Dẹp quán tính tư duy,

Cho muôn niệm về không,

Hết vọng khởi lăng xăng.

x

Bảy năm dài đăng đẳng,

Nhiều chặng bị cùm, xiềng,

Nhiều chặng bị nhốt riêng:

Kiên giam cùng biệt giam,

Số tám6 thường đeo mang,

Nhưng phàm tâm chẳng động,

Nhờ "luyện công Bát Nhã." 7

Qua quán chiếu nhân quả,

Quán Vô Thường, Huyễn Hóa,

Tất cả tướng thế gian

Thảy đều như mộng ảo,

Nên tâm không xao xuyến.

Lặng lẽ sống yên vui,

Chờ nghiệp quả chín mùi,

Dứt nghiệp tù—tự do!

x

Từ đó chẳng lo nghĩ,

Chẳng đeo sầu ủy mị,

Chỉ chăm chú thực hành,

Bốn oai nghi hạnh trực.8

Tích cực diệt giặc si,

Thì thầm trong não bộ,

Biện luận niệm tư duy.

x

Nhưng làm sao đi được,

Đến bước đường lý tưởng,

Dẹp vọng tưởng nhiễu nhương,

Buông xả niệm tư duy,

Buông luôn suy luận trí,

Cùng ý thức nhị nguyên 9,

Để hiển bày chân tánh,

Thành tựu cái vô sanh 10

Làm yên muôn thức tánh11?

x

Bảy năm trời đành chịu,

Ăn cay cùng nuốt đắng.

Cắn răng chịu gian khổ,

Cố quyết tâm thành đạt,

Định, Chỉ "hương thơm ngát."

Nhưng làm sao đạt được,

Bước đường lý tưởng ấy?

Thấy biết đã rõ ràng,

Thực hành lại vạn nan!

Sức người cũng có hạn,

Trường tâm đến lúc chán!

x

Đường hầm không ánh sáng,

Quờ quạng mò mẫm đi,

Lấy gì làm chỗ nương,

Lấy gì làm hướng đến,

Lấy gì làm bến bờ,

Để tiến tới dụng công,

Thành tựu “Không Theo Vọng?”

x

Đêm dài không một bóng,

Im lặng không tiếng động.

Tiếng dế nỉ non xa,

Như lời ca chán nản,

Khóc dùm thân bạn tù,

Quyết tu mà chẳng được.

vọng tưởng chẳng tha,

Cứ tà tà khởi dậy,

Nhiễu nhương khắp đó đây!

x

Nhiều khi thấy chán nản,

Bảy năm dài miên man,

Dù đang trong thạch thất,

Giá lạnh thấu tim, gan,

Vẫn tọa thiền đầy đủ,

Không đầu hàng giặc ngủ,

Không bỏ sót buổi tu.

Nhưng tu mà không được,

Vọng tưởng cứ dằng dai.

"Lép nhép" suốt đêm ngày,

Trần ai đành luống chịu.

Hẩm hiu ôm số phận,

Than thở biết cùng ai?

x

Giờ đây chỉ còn lại

Những lời Thầy chỉ dạy:

Nam nhi phải có chí,

"Quyết tử" là hướng đi.

Ngất trời "chí xung thiên."

Đạp tung mọi não phiền,

Chiến thắng mọi khổ đau

Bằng gươm báu Bát Nhã.

Diệt trọn hết quần ma,

"Ngã chấp," "ngã kiến tà"

Để ca khúc khải hoàn,

Muôn kiếp hết lang thang!

x

Lời Thầy luôn chói sáng,

Xua tan cơn khốn khổ.

Thách đố chí nam nhi,

Chớ chùn chân rủng chí.

Phải đi, đi, đi tới.

Giác ngộ không mong đợi:

Kẻ vơi chí nản lòng,

Kẻ cầu mong tha lực.

x

Đường Thiền muốn vượt bực,

Chớ háo hức lăng xăng,

Chớ nghĩ rằng đã đủ,

Phải phấn đấu tiến lên,

Giương lên cờ Ý Chí:

Quyết tử ta xông pha.

Với thanh gươm Bát Nhã,

Bến giác ta sẽ vào,

Đạo quả ta sẽ xong.

x

Đời tu thật sống động:

Mê, ngộ thường xen kẽ,

Bước đi như trẻ thơ.

Quờ quạng chưa biết chạy,

Kiếp tu lại long đong.

Bốn bức tường—riêng bóng:

Không bạn cũng không kinh,

Không Thầy để thưa thỉnh.

Ngày đêm sống một mình,

Mò mẫm từng bước đi.

Đổi pháp như thay y,

Vì không nắm yếu chỉ,

Pháp nào là pháp quí,

Cứ mò mẫm mà đi.

Nếu trúng thì rất may,

Không trúng lại mò lại.

Toi công năm tháng ngày.

Chán, vui nào ai biết,

Chí yếu thì tiêu vong!

x

Đêm dài, con không ngủ,

Lấy tu làm nguồn sống.

"Không tâm" làm tôn chỉ,

Tọa thiềncách đi.

Chỉ, Định là hướng nhắm,

Nhất tâm con quyết đạt.

Bến giác con sẽ vào,

Dù gian khổ ra sao.

x

Để đạt đạo "Không Tâm,"

Con lập hướng đi mới,

Với Mười Không qui định:

Không dính pháp thế gian,

Không bàn "nhân vô ngã,"

Không thỏa mãn sở thích.

Cố bít ngõ thói quen:

Dẹp khen, chê, trách cứ,

Dẹp luận bàn sanh tử,

Không khư khư tà kiến,

Không điên đảo, thị phi,

Không ham mê giải trí:

Môn đánh cờ chiếu bí,

Môn nhảm nhí chuyện phim.

Môn tìm vui văn nghệ,

Môn kể lể đời tư,

Chôn vùi hết quá khứ.

Từ giã hết tương lai,

Chỉ sống với hiện tại:

Đêm ngày không sở thích,

Cố giữ tâm lặng yên.

Dù gặp đủ chướng duyên,

Tọa thiền quyết không bỏ.

Ngủ, nghỉ chẳng buồn lo;

Đói, no chẳng màng đến,

Thực hành không chểnh mảng.

Miên mật từng tháng ngày,

Không lai rai chiếu lệ.

Cứ thế mà tiến lên.

Quyết đến bờ "Không Tâm."

x

Nhưng mênh mông trời biển,

Thuyền trưởng không la bàn,

ý chí dọc ngang,

Hầm khoang đầy xăng dầu,

Hải hành giỏi đến đâu

Cũng đành để con tàu

Lênh đênh trên bể cả,

Chờ ngày va ngầm đá,

Hoặc tan rã chìm sâu,

Làm mồi trong bụng cá

x

Như la bàn không có,

Thuyền trưởng đành bó tay.

Đời tu lại cũng thế:

Người tu dù hết mê,

Quyết tâm đi về nhà,

Nhưng tìm đâu ra lối:

Tiến thẳng đến “không tâm,”

Để không tầm quá khứ?

Không ước vọng tương lai?

Chỉ an trú hiện tại,

Bằng pháp bảo “vô sanh,”

Để “kiến tánh thành Phật?”

x

Việc tu quả thật khó:

Pháp tu đã rõ ràng,

Ý chí lại hiên ngang,

Trường tâm vô giới hạn,

Kiên tâm rất vững vàng.

Chỗ tu lại "thích nghi,"

Hợp lý với nhập thất:

Không vướng tất cả duyên,

Chỉ chuyên tâm thực hành,

Nhưng dành ôm bế tắc!

Vì làm sao “bặt” niệm

Cứ liên miên khởi ra?

x

Trăng vàng chênh chếch bóng,

Lãnh thất — tâm long đong.

Không gian ngoài khung cửa,

Tĩnh lặng không tiếng động.

Nhưng bên trong ngục thất,

Tiếng lòng con dao động.

"Không tâm" như ác mộng,

"Vô niệm" như dòng sông,

Nhấp nhô muôn lượn sóng.

"Kiến tánh" như bóng mờ,

"Vô sanh" như giấc mơ,

Toàn thể chìm ảo vọng!

x

Bảy năm trời toi công!

Đau khổ lấy gì sánh?

Gẫm mình cũng có tánh14,

Thực hành sao chẳng được?

Cơn tức liền dâng tràn,

Chán nản lên cùng cực.

Tức mình, viết hiên ngang:

"Không Thiền" cũng "Không Quán,"

"Không Định" cũng "Không Tu,"

"Không Thở" cũng "Không Trụ,"

"Không thu nhiếp lục căn,"

"Không phản quang tự kỷ,"

"Không đề cao ý chí,"

"Không kiên trì hiên ngang,"

"Không dán nhãn ‘quyết tử,’"

Như người xưa vẽ trán.

Khi tràng "Không" vừa đủ,

Dưới chữ "không" cuối cùng.

Con tung tay quẹt mạnh,

Thẳng cánh đường bút bi,

Với tâm không suy nghĩ.

Bỗng nhiên con đại ngộ,

Chỗ chỗ tâm rỗng rang.

x

Niềm vui dâng tràn đầy,

Xuất khẩu lập bài thơ:

"Ta đã hết rồi chuyện thế gian,

Tâm ta thanh thản như mây ngàn,

Đâu còn chi nữa mà đem nói,

Ý bặt, lời không, óc rỗng rang!"

x

Hướng đi đã rõ ràng,

La bàn tạm có đủ,

Con bèn khởi sự tu:

Mặc cho vọng lù lù,

Hiện ra trong nhãn thức.

Chỉ biết mà không bực,

Cũng không hề cực lực

Tuyên án vọng như xưa.

Cũng không hề đóng cửa,

Tất cả hết sáu căn.

Cũng không quát mắng vọng,

Mặc nó chạy tây đông;

Chẳng dụng công đuổi bắt,

Dù biết nó là giặc.

x

Dần dần vọng dừng bặt,

Làm con khởi thắc mắc:

Phía sau sự im bặt,

Cắt đứt những tư duy,

Thực sự nó là gì?

Do đâu muôn nghĩ tưởng,

Hết nhiễu nhương khởi dậy?

Mà bảy năm trước đây,

Chúng thường gây khốn đốn,

Làm điên đảo tâm hồn

Mỗi khi con hạ thủ 15?

x

Hoắt nhiên con chợt thấy:

Vọng dấy từ não con,

Qua đường mòn ngôn ngữ 16,

Từ năng lực VÔ MINH 17

Phát ra những tiến trình:

Quán tính động HAI BÊN,

Làm nền cho năng trí. 18

Khiến con luôn khởi nghĩ,

Diễn đạt những tư duy:

Thì thầm trong não bộ,

Làm sóng thức nhấp nhô,

Tạo ra muôn bão tố,

Tô điểm thức nhị nguyên,

Kết thành lưới sắn bìm,

Tiệm biếm 19 chân TỰ TÁNH ­20

Tạo ra lý đấu tranh,

Tranh giành KHÔNG với CÓ;

Xỏ mũi con ta bà, 21

Lục đạo 22 mãi không ra!

Mà chính Thầy dạy là:

"Biết vọng, ta chớ theo!"

x

Bảy năm đóng vai mèo 23,

Hông đeo gươm Bát Nhã,

Kiếm báu của thiền gia,

Để chém ma vô minh.

Nhưng chém hoài không hết.

Vì ma này vừa "chết,"

Ma khác lại hiện ra,

Dưới bóng cờ Tự Ngã!

x

Bằng trí phá HỮU - KHÔNG,

Dụng trí đứng nhìn vọng,

Lai rai thòng câu mắng,

Chưởi thẳng là đồ ngu!

Mỗi khi vọng lù lù,

Hiện ra trong nhãn thức.

Nhưng vọng không thực sợ,

Cứ tỉnh bơ xuất hiện.

x

Nay con tiến vượt bực,

Nhuần nhuyễn pháp hữu vi 24:

- Chẳng dùng suy luận trí,

- Chẳng dụng thức nhị nguyên,

- Cũng chẳng tuyên dương vọng:

Không bảo chúng là KHÔNG!

Không đóng vai mục đồng,

Đánh trâu đương chạy rong.

Con cũng không đồng hóa,

Tất cả vọng là MA,

Kẻ Trộm trong nhà,

Hại ta tiêu sản nghiệp.

Con cũng không thâu nhiếp:

Cố giữ chặt sáu căn,

Hay cắn chặt thoại đầu:

"Ai khởi niệm thâu canh?"

quay về chân tánh,

Luyện tập cách "TẮT LỜI,"

Nói thầm trong não bộ.

x

Bảy năm trời ta thán,

Vì lũ vọng nghinh ngang,

Tìm muôn ngàn phương cách,

Diệt sạch ma vô minh

Bằng chính gươm Bát Nhã.

Áp dụng quán diệt ma,

Nhưng ma này gục ngã,

Ma khác lại hiện ra!

x

Chiến đấu đà mệt mỏi,

Trận chiến sắp toi công,

Bỗng nhiên con nhận rõ:

Gốc vọng là nói thầm,

Tâm hành chính là chúng.

Nếu còn quán lung tung:

Giả, huyễn cùng mê, vọng,

“Thùng sơn không lủng đáy,”

Nói thầm cứ dằng dai,

Ngã, pháp luôn hai mặt,

Sóng thức không thể cắt.

x

Khi tâm ngôn im bặt,

Vững chắc không một lời,

Nhìn ngó biết khắp nơi.

Ngay đó liền nhận rõ,

“Trên đầu trăm ngọn cỏ,

Đều có tu huệ”:

“Không lời, không tư duy!”

Chân ý Tổ Đạt Ma,

Đã từng dạy Huệ Khả,

Mà Long Bà mô tả.

HẾT

(Kỷ niệm tại trại giam Hà Tây, bên bờ sông Tô Lịch, (Hà Nội - Bắc Việt Nam) tháng 2-1982)

________________


CHÚ THÍCH

1. Từ tháng 7 1975 đến tháng 5 1982

2. Núi đèo = chỉ cảnh từ miền Nam ra miền Bắc (vì bị tù đày)

3. Chỉ: trạng thái tâm yên lặng, vọng tưởng không khởi ra.

4. Định: trạng thái nhất tâm, dưới sự có mặt của tánh giác.

5. Hai bên: nhị nguyên = cách nhìn hai mặt của tâm chấp trước chủ quan.

6. Số 8 = còng tay có hình số 8.

7. Luyện công Bát Nhã = tu theo lý luận tục đế của Bát Nhã bằng phương thức quán chiếu hiện tượng thế gian.

8. Hạnh trực = hạnh thẳng = câu nói của Lục Tổ Huệ Năng"Tâm bình không cần trì giới, Hạnh trực nào cần dụng công tham thiền."

9. Nhị nguyên = hai bên

10. Vô sanh = tánh giác

11. Thức tánh = bản thể ý thức

12. Ngôn hành = cấu tạo ngôn ngữ trong tâm gồm nói thầm và đối thoại thầm lặng.

13. Tâm hành = cấu tạo tâm thuộc những lãnh vực của trí năng biện luận, suy nghĩ, tính toán và suy luận lý trí.

14. Tánh = chỉ tánh giác hay tự tánh hoặc Phật tánh.

15. Hạ thủ = tọa Thiền

16. Đường mòn ngôn ngữ = khu vực giải mã tất cả tín hiệu từ ngũ quan và các vùng ý căný thức thành những khái niệm ngôn ngữ.

17.  Vô minh = năng lực động triền miên từ trong các tế bào thần kinh não với tính cách ngu si, không phân biệt được phải trái, thiện ác, chánh tà.

18. Năng trí = trí năng

19. Tiệm biếm = từ từ dìm mất

20. Tự tánh = bản thể của chính mình

21. Ta bà = cõi đời này, thế gian

22. Lục đạo = sáu cõi luân hồi sanh tử, gồm Trời, Người, A Tu La, Ngạ Quỷ, Súc sanh, Địa ngục.

23. Vai mèo = ý nói mèo rình chuột, có nghĩa người tu ngồi nhìn vọng tưởng giống như mèo rình chuột.

24. Pháp hữu vi = pháp thực hành thiền có điều kiện nương theo, như các pháp quán, pháp thở.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
69,256