CỬA GIẢI THOÁT
Trong Phật giáo, giải thoát nằm trong bốn phạm vi cơ bản: (1) Nghiệp giải thoát, (2) Tâm giải thoát, (3) Tuệ giải thoát, và (4) Thân được an tịnh lâu dài khi còn sống.
Trên căn bản, vị ấy dứt trừ được ngũ chướng, thoát khỏi ba độc tham, sân, si, phá được 4 thứ lậu hoặc (Dục Lậu, Hữu Lậu, Kiến Lậu và Vô Minh Lậu), đoạn tận đắm trước ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tùy miên1 không còn, và dứt trừ được 10 dây trói buộc, tức Kiết sử2.
1. Nghiệp giải thoát. - Trên phạm vi sâu xa, con người thoát khỏi sự bao vây và thúc đẩy của năng lực tập khí hay lậu hoặc vốn tiềm tàng bên trong thân, tâm, và trí tuệ của mình. Đây là năng lực tạo ra những dây trói buộc cơ bản và nồng cốt nhất trong cuộc sống con người. Chính năng lực này làm cho con người không được tự do, tự tại, và lang thang mãi trong sáu cõi (lục đạo). Trong cuộc sống hiện tại, con người bị năng lực tập khí/lậu hoặc khống chế. Trong kiếp sống kế tiếp — sau khi chấm dứt mạng căn, con người lại tái sinh vào cảnh giới khác — năng lực này cũng chi phối con người, làm cho con người không thoát ra khỏi phiền não, khổ đau, vinh, nhục, họa, phúc, nước mắt, tranh chấp và thù hận. Bao lâu năng lực này còn hùng mạnh, bấy lâu con người vẫn không thoát khỏi những cảnh buồn, vui, vinh, nhục, toại nguyện, bất toại nguyện trong kiếp sống tạm bợ. Ba nghiệp thân, lời, và ý của con người vẫn bị chúng thúc đẩy và chi phối. Chính vì thế, tác dụng của Ba Cửa Giải Thoát trên phạm vi sâu xa là có khả năng làm kiệt quệ năng lực tập khí hay lậu hoặc. Cuối cùng chúng triệt tiêu tập khí hay lậu hoặc khỏi thân tâm và nghiệp thức. Từ đó con người mới kinh nghiệm thế nào là đắc được Niết bàn khi còn sống. Đây gọi là nghiệp giải thoát.
Ngoài ra, tùy theo quan điểm giải thoát của A La Hán đạo và Bồ Tát đạo, người tu thiền có khả năng nhập Niết bàn vĩnh viễn hay trở lại thế gian để phụng sự nhân sinh.
2. Tâm giải thoát. - Trên phạm vi thực tiễn trong cuộc sống hằng ngày, con người sẽ nhận ra tâm mình thoát khỏi những si mê, chấp trước, dính mắc, đấu tranh điên đảo, tranh chấp, thù hận, tị hiềm nhỏ nhặt, ích kỷ, bè phái, ngã mạn, tự tôn, và đam mê trong những thú vui trần tục thấp hèn như bài bạc, hút xách, rượu chè, trụy lạc. Nói chung là thoát khỏi bốn thứ bệnh ngã chấp, ngã kiến, ngã ái, ngã dục hay thoát khỏi bốn thứ điên đảo: vô thường, khổ, vô ngã, và bất tịnh, hoặc hai thứ thường kiến, đoạn kiến.
Con người sẽ nhận ra tâm của mình trở nên trong sạch, thanh thản, hồn nhiên, an lạc, phóng khoáng, rộng lượng, bao dung, và có đầy đủ tâm bi, tâm từ, tâm hỉ, tâm xả với tất cả mọi người chung quanh hay với tất cả chúng sanh. Thấy như thật, biết như thật không bao giờ xa vắng tâm giải thoát. Cả hai là nền tảng tâm giải thoát. Dù sống trong đời, bị ràng buộc nhiều về vấn đề kinh tế, xã hội, trách nhiệm gia đình, và những nhiệm vụ công dân, tâm vị ấy vẫn không dính mắc với đời. Đây gọi là tâm giải thoát. Tâm này là nền tảng giải thoát của tuệ, thân, và nghiệp thức.
3. Tuệ giải thoát. - Trên phạm vi trí tuệ, con người sẽ không còn bị ràng buộc hay bị cột trói, hoặc bị chi phối bởi những thứ trí ngu si, đen tối, chậm chạp, cùn nhụt, nông cạn, ấu trĩ, mê tín, chấp trước, yếu đuối, luôn luôn dựa trên ý thức phân biệt và trí năng suy luận nữa. Trí tuệ con người trở nên trong sáng, linh hoạt, bén nhạy, minh mẫn, sâu sắc, chủ động; có chánh kiến, chánh niệm, và chân trí. Chánh trí hay trí tuệ hoàn hảo (perfect wisdom) của con người lúc nào cũng hiện hữu trong 4 oai nghi. Con người thấu suốt được nguồn cội các quy luật nhân quả nghiệp báo, quy luật vô thường, quy luật xung đột, quy luật vô ngã, quy luật duyên sinh, quy luật như huyễn và giả danh, giả có, tụ, tán, ly, hợp, thành, trụ, hoại, không; sanh, trụ, dị, diệt. Nói chung, con người có nhận thức mới về dòng sinh diệt vạn hữu trong đó có thân, tâm, và những gì con người sở hữu hay con người liên hệ như bà con ruột thịt, xa gần, quê hương, đất nước. Con người không còn bị ảnh hưởng hay bị dao động bởi những cái nhìn thiển cận, mê tín, dị đoan, chấp trước, dính mắc theo truyền thống thế gian. Những khái niệm “Ta” và cái “của Ta” bị triệt tiêu. Từ trên cơ sở này con người phát triển được trí tuệ tâm linh sâu sắc trên nhiều mặt: từ trực giác trí (intuitive knowledge) đến siêu việt trí (transcendental wisdom), hay Nhất thiết trí, tức Toàn trí (All Knowledge); có những tầm nhìn xa, trông rộng bằng những trực giác bén nhạy, có cơ sở khoa học. Đây gọi là tuệ giải thoát.
4. Thân an tịnh. - Trên phạm vi sống trong cuộc sống hiện thực, con người kinh nghiệm các căn thanh tịnh, thần sắc trong sáng, thân được khỏe mạnh, ngăn ngừa hay tự chữa khỏi được bệnh tâm thể; không dính mắc về thân; đạt được nhân chứng; chủ động được nghiệp thức trước khi từ giả cõi đời. Đây là thân được an tịnh, thoát khỏi những ràng buộc về chấp thân năm uẩn.
Đó là bốn phạm vi giải thoát cơ bản mà qua một trong Ba Cửa Giải Thoát người tu thiền sẽ kinh nghiệm được. Tuy nhiên, đây là trên mặt lý thuyết. Trên mặt thực hành để đạt được giải thoát thật vô cùng khó khăn. Vì muốn đi vào một trong ba cửa này, người thực hành phải trải qua hai kinh nghiệm căn bản:
Một là thông suốt cốt lõi ba nguyên lý Không, Vô Tướng, Vô Nguyện. Hai là kinh nghiệm nhận thức không lời để thể nhập một trong ba loại Định: Không Định, Vô Tướng Định, Vô Nguyện Định.
Ý NGHĨA CỬA GIẢI THOÁT
Hỏi: - Ý nghĩa Cửa là gì?
Đáp: - Trên mặt tâm linh trong Thiền Phật giáo, Cửa là ẩn dụ dùng để chỉ lối vào hay nơi ta phải đi qua hoặc điều mà ta phải ứng dụng hay pháp mà ta phải thực hành để đạt được những phương diện siêu vượt (transcendental aspects) trên các mặt thân, tâm, và trí tuệ.
Hỏi: - Ý nghĩa dụng ngữ (expression) “Cửa Giải Thoát” là gì?
Đáp: - Nếu phát tâm đi theo Con Đường Bồ Tát, dụng ngữ “Cửa Giải Thoát” dùng để chỉ cho phương pháp thực hành có tác dụng đưa đến giải thoát tâm, thức, trí, và thân con người khỏi những kềm tỏa của tập khí và khổ đau, phiền não mà con người đã trải qua kinh nghiệm trong cuộc sống hiện tại; chuẩn bị cho kiếp sống tốt đẹp trong tương lai. Còn phát tâm đi theo Con Đường A La Hán, toàn bộ tâm, thức, trí, và thân của ta chẳng những thoát khỏi mạng lưới bao vây của bốn nhóm lậu hoặc, gồm vô minh, dục, hữu, kiến trong kiếp hiện tại mà còn đưa đến chấm dứt kiếp tái sinh trong tương lai.
Hỏi: - Xin giải thích thêm về tác dụng đưa đến giải thoát tâm, thức, trí, và thân. Bốn phần này có khác với đề mục phạm vi giải thoát ở phần trước đã có nêu rồi không?
Đáp: - Không khác. Tuy nhiên, cũng xin bổ túc thêm cho rõ nghĩa. Tác dụng của “Cửa Giải Thoát” như sau:
Thứ nhất là đưa tâm con người thoát khỏi những cảnh lo âu, phiền muộn, sầu khổ, vui sướng tạm bợ, chấp trước, bám chặt hay dính mắc trước tất cả đối tượng của mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, và thân xúc chạm trong cuộc sống hằng ngày hiện nay. Nếu được như thế, tâm con người trở nên tỉnh ngộ, rồi giác ngộ. Con người không còn bị ràng buộc bởi những dính mắc vào các tướng. Bồ đề tâm ngày càng phát huy rộng lớn. Mạng lưới vô minh, vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa, sống chỉ biết lo cho mình mà quên hết người chung quanh không còn bao phủ tâm nữa. Tâm trở nên thuần tịnh, thanh thản, an vui, phóng khoáng, rộng lượng, hòa hợp, cỡi mở, rộng rãi với tất cả mọi người. Tinh thần hướng đến các Ba la mật được kiện toàn trong tâm. Tâm không còn huân tập hay xông ướp thêm tập khí/lậu hoặc mới, đồng thời có khả năng loại dần tập khí hay lậu hoặc cũ. Đây là yếu tố quan trọng để chuyển đổi nghiệp thức con người trong khi còn sống; hỗ trợ cho năng lực trong sạch, thuần tịnh của nghiệp thức trước khi mạng căn chấm dứt trên cõi đời tạm bợ.
Thứ hai là đưa thức (tức ý thức) con người thoát khỏi dính mắc đối tượng để trở nên thuần tịnh. Trí năng hoàn toàn tỉnh ngộ. Đây là nguyên tắc tạo ra định lực, đồng thời tạo ra năng lực trong sạch cho ý thức. Trong khi còn sống, tự ngã hoàn toàn ở trong trạng thái thanh tịnh. Thấy như thật, biết như thật, nghe như thật không xa lìa trong bốn oai nghi. Khi tâm và thức trong sạch đưa đến thân và tâm được hài hòa cùng nhau. Môi trường sống không còn gây chướng ngại cho thân và tâm. Những chấp trước, dính mắc, si mê, điên đảo đều bị loại bỏ.
Nhờ thường xuyên sống trong trạng thái ý thức trong sạch, sau khi mạng căn chấm dứt, con người có khả năng chủ động nghiệp thức của mình trước khi lâm chung. Nói theo Thiền, đây là người tu đạt được trạng thái nhân chứng. Tánh giác đã thực sự hiển lộ vững chắc.
Thứ ba là đưa trí thoát khỏi những lập luận, suy nghĩ, quan niệm, tính toán, nhận định theo truyền thống thế gian hoặc theo tình cảm hay tâm lý bất thường riêng biệt của cá nhân; từ đó tuệ trí (insight) được mở rộng, đưa đến chánh trí. Con người sống biết đủ và lúc nào cũng hướng thượng, cầu tiến; phát huy tinh thần tự lợi và lợi tha để hoàn tất sự nghiệp phụng sự nhân sinh theo tinh thần Bồ tát đạo.
Thứ tư là đưa thân đến trạng thái khỏe mạnh, da dẽ hồng hào, trong sáng, và ngăn ngừa hay dứt trừ được bệnh tâm thể. Năng lực hoạt động của thân trở nên linh hoạt, tháo vác, nhanh nhẹn. Thân hài hòa cùng tâm. Phong thái của thân trở nên chững chạc hơn. Nhịp hoạt động để phụng sự nhân sinh trong các bối cảnh gia đình, xã hội, và cộng đồng được phát huy cao hơn và có nhiều hiệu quả. Trong cuộc sống đa dạng hiện tại, thân hòa hợp dễ dàng để thực hiện đầy đủ lý tưởng Bồ tát.
Tóm lại, dụng ngữ “Cửa Giải Thoát” dùng để chỉ cho phương pháp thực hành có tác dụng đưa đến giải thoát tâm, thức, trí, và thân con người khỏi những kềm tỏa của tập khí/lậu hoặc, và khổ đau, phiền não.
Chú Thích
1. Tùy miên (anusaya), Tùy là đi theo, miên là ngủ. Nó là những phiền não hay đam mê ngủ ngầm (dormant passions) trong tâm. Lục tùy miên gồm: tham, sân, si, vô minh, kiến, nghi.2. Mười kiết sử là:
– Thân kiến (sakkāya-ditthi),
– Hoài nghi (vicikicchā),
– Giới cấm thủ (silabata-parāmāsa)
– Tham đắm vào cõi dục (kāma-rāga)
– Sân hận (vyāpāda),
– Tham đắm vào cõi sắc (rūpa-rāga),
– Tham đắm vào cõi vô sắc (arūpa-rāga),
– Mạn (māna),
– Trạo cử vi tế (uddhacca),
– Si vi tế (avijjā).
Chép lại từ bài giảng và bài đọc thêm của Hòa Thượng Thích Thông Triệt.
Tuệ Chiếu