HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Triệt Như - Tiếng Hát Giữa Trời - Bài 19: HẠNH ĐẦU ĐÀ CHIẾU SÁNG

22 Tháng Sáu 20221:22 CH(Xem: 3085)
Triệt Như - Tiếng Hát Giữa Trời - Bài 19

HẠNH ĐẦU ĐÀ CHIẾU SÁNG
19 TITLE TIENG HAT GIUA TROI  VN copy

Chúng ta đọc lại phần trình bày của ngài Mahā Kassapa trong đại kinh Rừng Sừng Bò.

Khi nghe nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Mahā Kassapa:

-- Này Hiền giả Kassapa, Tôn giả Anuruddha đã trả lời theo sự giải thích của mình. Ở đây, nay chúng tôi hỏi Tôn giả Kassapa: Này Hiền giả Kassapa, khả ái thay ngôi rừng Gosinga... (như trên)... Này Hiền giả Kassapa, hạng Tỷ-kheo nào làm sáng chói khu rừng Gosinga?

-- Ở đây, này Hiền giả Sariputta, Tỷ-kheo, tự mình sống ở rừng núi và tán thán đời sống ở rừng núi, tự mình sống khất thực, và tán thán đời sống khất thực, tự mình mặc y phấn tảotán thán hạnh mặc y phấn tảo, tự mình sống với ba y và tán thán hạnh ba y, tự mình sống thiểu dụctán thán hạnh thiểu dục, tự mình sống biết đủ và tán thán hạnh biết đủ, tự mình sống độc cưtán thán hạnh sống độc cư, tự mình sống không nhiễm thế tụctán thán hạnh không nhiễm thế tục, tự mình tinh cần, tinh tấntán thán hạnh tinh cần, tinh tấn, tự mình thành tựu giới hạnhtán thán sự thành tựu giới hạnh, tự mình thành tựu Thiền địnhtán thán sự thành tựu thiền định, tự mình thành tựu trí tuệtán thán sự thành tựu trí tuệ, tự mình thành tựu giải thoáttán thán sự thành tựu giải thoát, tự mình thành tựu giải thoát tri kiếntán thán sự thành tựu giải thoát tri kiến. Này Hiền giả Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga.

Chúng ta thử tìm hiểu thân thế của ngài Mahā Kassapa, rồi chúng ta có thể nhận ra giá trị của hạnh tu đầu đà.

Theo kinh sách ghi chép, sau khi đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassī) nhập niết-bàn, tứ chúng xây tháp thờ xá-lợi, trong tháp có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày, trên mặt pho tượng bị lở khuyết. Có một cô gái trao một đồng tiền vàng cho thợ đúc vàng nấu ra để tu bổ lại tượng Phật. Cô gái đó là tiền thân của bà Bhadra Kapilani, và người thợ đúc vàng là tiền thân ngài Mahā-Kassapa. Do nhân duyên đó mà cả hai người đều được sinh ra trong đời này có sắc da vàng óng và được gặp Phật.

Ngài Mahā Kassapa là con trai một gia đình Bà la môn giàu có trong xứ Magadha (nay thuộc các quận Patna và Gaya, tiểu bang Bihar, miền đông bắc Ấn Độ. Thành Vương Xá, núi Linh Thứu, và Trúc Lâm Tịnh xá đều nằm trong xứ Ma Kiệt Đà).

Ngài học giỏi, có những vẻ đẹp của bậc đại nhân, nhưng đến tuổi trưởng thành vẫn không nghĩ tới việc lập gia đình. Cha mẹ ép buộc quá, ngài đưa ra một điều kiện phải chọn một cô gái có sắc da vàng óng như ngài. Và cô gái đó là cô Bhadra Kapilani. Điểm tương đồng nữa là cô gái này cũng không muốn lập gia đình mà chỉ muốn đi tu. Cả hai đều ước hẹn với nhau kết hôn để cha mẹ hai bên yên lòng, nhưng sự thật hai người chỉ đối xử với nhau như hai người bạn tốt. Khi cha mẹ mất, cả hai chia tay nhau, mỗi người đi tìm thầy học đạo. Ngài Mahā Kassapa gặp đức Phật rất sớm, sau khi đức Phật thành đạo. Chỉ bảy ngày sau, ngài đạt quả Arahant. Còn bà Bhadra Kapilani về sau cũng gia nhập ni đoàn của bà Pajāpati Gotamī.

Ngài Mahā Kassapa xuất thân từ một gia tộc giàu sang Brahmin, cai quản một vùng đất đai, nhưng khi xuất gia, ngài lại chọn lối sống thật là khiêm nhường: mặc y kết bằng các mảnh vải rách, lượm từ đống rác, ngủ nghỉ trong rừng vắng, ăn những thức ăn khất thực không khen chê...Và cuộc sống như thế cứ tiếp diễn hoài cho tới khi già yếu vẫn không thay đổi. Ta biết rằng ngài Mahā Kassapa lớn tuổi hơn đức Phật.

Chúng ta đọc bài kinh ngắn này, mình sẽ nhận ra mối thâm tình giữa đức Phật và người đệ tử lớn:

Một thời Thế Tôn trú ở Ràjagaha, tại Veluvana. Rồi Tôn giả Mahà Kassapa (Đại Ca Diếp) đi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Mahà Kassapa:

-       Này Kassapa, ông đã già rồi, như những tấm vải gai thô cũ nát đáng được quăng bỏ. Vậy này Kassapa, hãy mang những y áo do các gia chủ cúng, thọ dụng các món ăn được mời và ở gần bên Ta.

-       Bạch Thế Tôn, con là người đã lâu ngày sống ở rừng, đi khất thực, mang y phấn tảo, sống thiểu dục tri túc, không giao thiệpthường tinh cần.

-       Này Kassapa, ông thấy có lợi ích gì mà đã lâu ngày sống ở rừng, đi khất thực, mang y phấn tảo, sống thiểu dục tri túc, không giao thiệpthường tinh cần?

-       Con thấy có hai lợi ích, tự mình được an lạc và vì lòng từ mẫn mong rằng chúng sanh sẽ học tập theo… nếu thực hành được như vậy trong một thời gian dài họ sẽ sống an lạc, hạnh phúc.

-       Lành thay, Kassapa. Ông thực hành như vậy vì lợi ích cho chúng sanh, vì lòng từ mẫn với đời, vì an lạc cho chư Thiênloài người.

          Vậy này Kassapa, hãy mang vải gai thô đáng được quăng bỏ. Hãy sống khất thực và trú ở trong rừng.

(ĐTKVN, Tương Ưng II, chương 5, phần Trở về già, VNCPHVN ấn hành, 1993, tr.348).

Chúng ta nhận thấy ngài Mahā Kassapa đã chọn đời sống khổ hạnh tối đa, chứ không phải đời sống khổ hạnh khốc liệt như đạo sĩ Gotama lúc độc cư trong khu rừng rậm kinh hoàng. Tại sao có sự khác biệt đó? Tại sao ngài Mahā Kassapa lại được đức Phật tán thánđầu đà đệ nhất?

Đầu đà là dịch âm từ tiếng Sanskrit “Dhūta”. Đây là một lối tu phổ thông thời xưa, lìa bỏ những sự hưởng thụ trong ăn uống, áo quần, ngủ nghỉ, chỉ sống bằng những thứ vất bỏ, sống hoàn toàn không tiện nghi, không đòi hỏi, kham nhẫn nắng mưa, đói khát.

 Đạo sĩ Gotama lúc đó chưa đạt được thượng trí, niết bàn, sau vài năm khổ hạnh, nên cuối cùng ngài quyết định tiến lên khổ hạnh khốc liệt, ngài rời xa nhóm năm vị đạo sĩ bạn, một mình đi vào rừng sâu, không đi khất thực mỗi sáng nữa mà ăn rễ cây, trái cây rụng, không còn vải lượm từ đống rác, không tiếp xúc với người, nghe tiếng người đốn củi, hay người săn thú, ngài chạy trốn vào rừng sâu thật xa. Đến lúc cuối ngài khởi ý tuyệt thực, mong đạt mục tiêu. Nhưng qua lần muốn đứng lên thì té xuống bất tỉnh, ngài tỉnh ngộ, biết rằng khổ hạnh khốc liệt không phải là con đường đưa tới giác ngộ. Từ đó, ngài trở lại sống biết đủ, không hưởng thụ như người đời, cũng không khổ hạnh thái quá, là bước đầu của trung đạo.

Ngài Mahā Kassapa, được tán thán là “hạnh đầu đà đệ nhất”, vì bấy giờ đã có chánh pháp đức Phật giảng dạy rõ ràng, con đường tu là trung đạo. Không cần đem thân và tâm của mình ra để thử tháchtìm kiếm nữa. Vì thế tuy khổ hạnh gọi là đệ nhất cũng chỉ là tương đối trong hàng ngàn tỳ kheo của giáo đoàn đức Phật, là sống biết đủ, tiện nghi tối thiểu, để duy trì hạnh sống trong sạch, không tham, sân, si, không có lậu hoặc.

Đó là nhìn vẻ bên ngoài, ăn mặc, ngủ nghỉ, nhìn sâu hơn là bào mòn các tham ái, tận diệt sâu sắc nhất là cái ngã. Không còn “ta”, thì mới không còn vô minh, cũng không còn muốn tái sinh.

Tuy hạnh sống đầu đà là cao thượng và khó kham nhẫn như thế, nhưng người đời thường không biết tới, người đời chỉ xét qua bề ngoài: áo quần đẹp đẽ, sang trọng là người tốt. Vì thế có một câu chuyện vui vui về ngài Đại Ca Diếp này.    

Có lần, ngài từ xa đến, muốn ra mắt đức Phật. Các chúng Tỳ-kheo ngồi vây quanh Phật đang giảng pháp. Các tỳ kheo mới xuất gia, ở gần cửa vào, trông thấy ngài mặc y bằng vải rách, thân hình tiều tụy, có ý khinh thường, không cho ngài bước vào giảng đường. Đức Phật ở xa trông thấy, gọi ngài:

-       “Đại Ca-diếp đến đây! Ta nhường nửa tòa cho ông ngồi bên ta".

Ngài vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo:

-       "Ta có đại từ đại bi, các thiền định tam muộivô lượng công đức để tự trang nghiêm, Tỳ-kheo Ca-diếp này cũng như thế. Do đó, ta nhường nửa tòa cho Ca-diếp ngồi".

Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo mạn, cúi đầu cung kính ngài.

Thêm một câu truyện nổi tiếng về ngài Mahā Kassapa, đó là “Niêm hoa vi tiếu”.

Niêm hoa: đưa cái hoa lên.

Vi tiếu: mĩm cười.

Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh Sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu). Phật bảo: "Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo gìn giữ Chánh pháp này, truyền trao mãi đừng cho dứt, đến sau sẽ truyền cho A-nan".

Thế Tôn đến trước tháp Đa Tử gọi Ma-ha Ca-diếp đến chia nửa tòa cho ngồi, lấy y Tăng-già-lê quấn vào mình Ca-diếp, rồi nói kệ phó pháp:

Pháp bản pháp vô pháp,

Vô pháp pháp diệc pháp.

Kim phó vô pháp thời,

Pháp pháp hà tằng pháp.

Dịch:

Pháp gốc pháp không pháp,

Pháp không pháp cũng pháp,

Nay khi trao không pháp,

Mỗi pháp đâu từng pháp.

Lúc Phật Niết-bàn tại thành Câu-thi-na trong rừng Sa-la, thì ngài đang ở trong động Tất-bát-la trên núi Kỳ-xà-quật. Nghe tin Phật Niết-bàn, ngài và 500 đệ tử vội vã hướng về thành Câu-thi-na. Đến nơi, đã để Phật vào kim quan, ngài buồn bã. Thầy trò đi nhiễu kim quan ba vòng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim quan để an ủi ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, lòng rất bi thảm.

Sau khi thiêu thân Phật xong, ngài tuyên bố với chúng Tỳ-kheo: "Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ-kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau".

Ngài bèn nói kệ:

Như Lai đệ tử,

Thả mạc Niết-bàn.

Đắc thần thông giả,

Đương phó kết tập.

Dịch:

Đệ tử Như Lai,

Chớ vội Niết-bàn.

Người được thần thông,

Nên đến kiết tập.

Thế là, sau Phật Niết-bàn 3 tháng, ngài triệu tập 500 vị đại A-la-hán tụ họp tại núi Kỳ-xà-quật, trong động Tất-bát-la kết tập. Chỉ có tôn giả A-nan không được dự hội, vì chưa sạch các lậu. Tôn giả A-nan buồn bã, suốt đêm chuyên tâm thiền định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các lậu dứt sạch được quả A-la-hán. Sau đó, tôn giả được mời dự hội.

Ngài thưa toàn chúng: "Tỳ-kheo A-nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu hạ Như Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không sót, như nước rót vào bình không rơi ngoài một giọt, nên mời kết tập tạng Kinhtạng Luận. Mời Tỳ-kheo Ưu-ba-ly kết tập tạng Luật". Toàn chúng đều hoan hỷ chấp thuận. Hội kết tập này, ngài là chủ tịch.

Sau cuộc kết tập này viên mãn, nhân duyên độ sanh đã xong xuôi, ngài thấy tuổi quá già yếu, bèn gọi tôn giả A-nan đến bảo: "Khi Như Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem Chánh pháp nhãn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn, đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo gìn giữ chớ để đoạn dứt".

Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê Túc nhập định. Liền đó, ngài đi từ giả vua A-xà-thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.

Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn dịch (Tu viện Chơn Không - 1971)

Việc đức Phật chia nửa tòa ngồi bên cạnh đức Phật cho ngài Mahā Kassapa là có ghi trong kinh Nikāya, còn tích “Niêm hoa vi tiếu” trong kinh Nikāya không có, chỉ có trong thiền sử mà thôi, còn việc ngài Mahā Kassapa triệu tập và chủ trì kỳ Kết tập Kinh Điển Phật giáo lần thứ I chỉ ba tháng sau khi đức Phật nhập diệt, các vị Tổ có ghi rõ ràng chi tiết trong kinh Đại Bát Niết Bàn trong Nikāya.

Có lẽ căn cứ vào ba sự kiện quan trọng này mà Thiền Tông Ấn Độ và Trung Hoa về sau có lập trường vững chắc rằng Đức Phật đã truyền thừa cho ngài Mahā  Kassapa tiếp tục lãnh đạo Tăng đoàn sau khi đức Phật vào Niết bàn.

Hôm nay học lại gương sáng của người xưa, gương sáng vẫn muôn đời là gương sáng. Ánh sáng chỉ sáng cho những ai nhìn thấy. Ánh sáng của trí tuệ muôn đời vẫn thầm lặng chiếu soi trần gian, như ánh trăng kia thầm lặng sáng trong đêm dài cuộc đời.


Thiền viện, 17- 6- 2022

TN

 

blank
Triệt Như - Tiếng Hát Giữa Trời
Bài 19: HẠNH ĐẦU ĐÀ CHIẾU SÁNG

blankClick icon tam giác để nghe - Click icon ba dấu chấm để download
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 855)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1333)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1219)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1179)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 2020)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1475)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1442)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1890)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1935)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 2155)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
26 Tháng Tám 20232:36 CH(Xem: 2064)
Tuệ ở đây mình muốn nói tới Vipassanā, Tuệ Minh sát. Trong giới hạn bài này, mình bàn tới bài Kinh Niệm Xứ, trong kinh Nikāya. Mặc dù thông thường người ta vẫn nói “Quán Tứ niệm xứ”, trong bài kinh cũng nói “Quán thân” (Kāya-anupassanā) v.v…nhưng hiện nay các vị tôn đức xếp bài kinh Niệm xứ là Vipassanā, là thuộc Tuệ. Cho nên trong bài này, mình cũng tạm nói là Tuệ, tức là dùng tuệ thực hành...
20 Tháng Tám 202310:54 SA(Xem: 2429)
Nói tới Quán, có vài loại Quán hơi khác nhau, trong bài này chỉ xin nói tới loại Anupassanā, nghĩa thông thường là nhìn ngắm hiện tượng thế gian liên tục để nhận ra bản thể hay đặc điểm của hiện tượng thế gian là: vô thường, khổ, vô ngã. Vậy mình cũng có thể hiểu Quán là quan sát hiện tượng thế gian bằng con mắt trí tuệ.
14 Tháng Tám 202311:20 SA(Xem: 1859)
Muốn đạt được kết quả tốt, người thực hành phải hội đủ 5 tiêu chuẩn cần thiết: Tự lực, Nhu cầu, Quyết tâm, Lý thuyết, và Lý luận. Đây là 5 tiêu chuẩn lập thành hệ thống lý luận thực tiễn trong việc thực hành Thiền Phật giáo. Muốn điều chỉnh thân, cải tạo tâm, cân bằng thân-tâm, và phát huy trí tuệ tâm linh có hiệu quả, 5 tiêu chuẩn nói trên không thể tách rời nhau được.
09 Tháng Tám 202312:40 CH(Xem: 2141)
Cốt lõi là cái tinh túy, cái tinh ba. Chớ không phải cái bề ngoài. Nếu so với cái cây, nó không phải là lá cây, cành cây.v.v. mà là cái lõi bên trong của cây. Cái cốt lõi đó phải ngắn gọn, mới gọi là cốt lõi. Mà trong đạo Phật có nhiều cốt lõi lắm. Tại sao vậy?
02 Tháng Tám 20238:44 CH(Xem: 2116)
Chư Tổ Phát Triển thường nói có tới 84 ngàn pháp môn tu, tức là có vô số cổng để bước vào ngôi nhà giác ngộ, hay ngôi nhà giải thoát. Hôm nay chúng ta thử khảo sát cánh cổng của Giới.
31 Tháng Bảy 202310:00 SA(Xem: 1560)
“Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau.
17 Tháng Bảy 20231:44 CH(Xem: 1450)
Dès la clôture de la retraite bouddhique à Berlin, notre groupe de bhikkhunis - Nhu Minh, Nhu Sen et moi-même - a pris le lendemain, 19 mai, l'avion pour Paris. Le 20 mai au matin, la retraite de courte durée y a commencé, durant 3 jours, samedi, dimanche et lundi. Ce stage est également bilingue français-vietnamien avec la présence de quelques francophones qui écoutaient en direct l’enseignement à l’aide des écouteurs personnels. Ainsi la traduction ne gênait personne, et le cours se déroulait normalement comme d'habitude.
12 Tháng Bảy 20234:15 CH(Xem: 1982)
KINH VĂN : Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. bao gồm bản Hán Việt, bản dịch nghĩa, bản Anh ngữ & Pháp ngữ
05 Tháng Bảy 20239:06 SA(Xem: 1119)
Như vậy con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
13 Tháng Sáu 20237:59 CH(Xem: 1638)
Hòa Lan, thành phố đông người trần tục hay vườn hoa thiên nhiên với con người an vui thanh thản?
11 Tháng Sáu 20234:39 CH(Xem: 1379)
Le 4 mai commençait la retraite dans un centre de la ville de Moissac. Cet endroit, situé sur une haute colline tranquille ayant abrité déjà plusieurs retraites bouddhiques, était un ancien couvent carmélite, aujourd’hui transformé comme lieu de villégiature pour touristes. La Sangha de Toulouse a toujours été composée davantage de pratiquants français que vietnamiens, d’où la nécessité d’organiser la retraite en bilingue. Tout le monde doit rester sur place, car c'est loin de Toulouse.
05 Tháng Sáu 20236:34 CH(Xem: 1690)
Trường Bộ Kinh Digha Nikaya 16. Kinh ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN (Mahàparinibbàna sutta)
30 Tháng Năm 20234:42 CH(Xem: 1169)
Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM (citta: mind, state of consciousness)
29 Tháng Năm 20233:10 CH(Xem: 1251)
Theo quan niệm của Phật giáo thì Niết-bàn là trạng thái tâm thanh tịnh tuyệt đối, nghĩa là tâm dập tắt hoàn toàn ngọn lửa tham, sân, si. Người đạt được trạng thái Niết-bàn là người có thái độ sống an nhiên tự tại “thường, lạc, ngã, tịnh” ngay trong vòng xoáy “Vô thường, bất toại nguyện và vô ngã” nơi thế gian này!
69,256