HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: ĐỨC PHẬT THÍCH CA LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI

25 Tháng Năm 20216:03 CH(Xem: 3334)

ĐỨC PHẬT THÍCH CA

LỊCH SỬ VÀ HUYỀN THOẠI

------------------------

 blank

I. DẪN NHẬP

Nhân mùa Lễ Khánh Đản của Đức Thích Ca Mâu Ni, đệ tử chúng ta cùng nhau ôn lại tiểu sử của Ngài để có sự hiểu biết về một vĩ nhân đã để lại cho hậu thế một kho tàng văn hóa Phật học vĩ đại gồm 12,601 bài pháp thoại trong suốt 45 năm hoằng hóa của Ngài, mà đã 2,565 năm trôi qua kể từ ngày Đức Phật viên tịch đến nay, nền minh triết đó vẫn còn được dân gian trên thế giới kể cả những người theo đạo Phật và những người không theo đạo Phật nghiên cứu học hỏi.

Trình bày về tiểu sử đức Phật, người Phật tử có hai cái nhìn. Một là đức Phật huyền thoại được ghi lại đầy đủ trong bộ kinh Phật Tổ Thống Kỷ (Bắc Tông). Bộ kinh này mô tả rất chi tiết về sự kiện đản sanh của Đức Phật, thậm chí còn kể rõ Ngài là một vị Bồ-tát ngự trên cõi Trời, đản sinh xuống làm người. Cái nhìn thứ hai khoa học hơn, cũng theo kinh sử để lại thì Ngài là một người bình thường như bao nhiêu người khác, có cha mẹ, vợ con, có những ưu tư về cuộc sống đau khổ của con người, nên muốn tìm phương pháp tu tập để thoát khỏi cái vòng luân hồi sanh tử.

Thời gian Thái tử đản sanh và lớn lên trong hoàng cung, nguyên nhân xuất gia hay giai đoạn học đạo với hai vị đạonổi tiếng thời ấy là đạo sĩ Alãra Kãlama và Uddaka Ramãputta, cũng như lúc nhập đoàn với năm anh em Kiều Trần Như tu khổ hạnh, hay tiến trình tu chứng thành đạo cũng không có gì khác biệt giữa vị Phật huyền thoại và vị Phật lịch sử.

Viết bài này, chúng tôi mạn phép lấy tựa đề là “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Lịch Sử Và Huyền Thoại” nhằm giới thiệu sơ lược về lịch sử đản sanh và con đường tu tập đi đến thành đạo của Ngài, chứ không khai triển sâu sắc vào các chi tiết khác, bởi chỉ có mấy ngàn chữ theo quy ước này, thì làm sao có thể diễn đạt được hết cuộc đời của một bậc Giác Ngộ như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni!

 

II. ĐỨC PHẬT “LỊCH SỬ”

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi nhận là một vị Phật lịch sử, vì Ngài là một con người bằng xương, bằng thịt, như bao nhiêu người khác. Ngài đản sanh vào năm 624 trước Tây lịch. Theo lý giải của Phật Giáo Nam Tông thì Đức Phật sanh vào ngày Rằm tháng Tư Âm lịch. Theo Phật Giáo Bắc Tông Đức Phật sanh ngày mồng Tám tháng Tư Âm lịch. Ngài ra đời tại ven rừng ở Lâm-Tỳ-Ni, một địa danh nằm giữa hai tiểu quốc Sakya và Koliya thuở bấy giờ. Đây là khu vực nằm giữa dãy Hy-mã-lạp-sơn và sông Hằng. 624 năm sau, Tây phương mới bắt đầu chọn năm sinh của đức Chúa Jesus Christ làm khởi điểm cho Dương lịch. Như vậy, tính đến năm nay 2021 thì đức Phật ra đời được 2,645 năm tuổi. Ngài nhập Niết-bàn lúc 80 tuổi vào năm 544 trước Tây lịch. Vậy  thì Ngài đã rời khỏi thế gian này 2,565 năm.

Thế danh của Đức Phật là Siddhãrtha (Skt)/Siddhattha (Pãli), họ Gautama/Gotama, thuộc dòng tộc cao quý Thích Ca (Sakya), gốc dân da trắng Árya. Chúng ta biết đến Ngài với cái tên quen thuộc là Sĩ-Đạt-Ta/Tất-Đạt-Đa, họ là Cồ-Đàm. Ngài là Thái tử nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ. Phụ hoàng là Tịnh-Phạn Vương-đầu-đà-na (Suddhodana). Mẫu hoàng là Ma-ha-ma-da (Mayadevi) băng hà sau khi hạ sanh Ngài được 7 ngày. Vương phi Ma-ha Ba-xa-ba-đề (Maha Pajapati Gotami) là dì ruột đã trực tiếp nuôi nấng dạy dỗ Thái tử kể từ khi Hoàng hậu Maya băng hà cho đến khi Thái tử Sĩ-Đạt-Ta trưởng thành.

Năm 16 tuổi, Thái tử thành hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yashodhara) cùng tuổi với Ngài vào năm 608 trước Tây lịch. Năm 29 tuổi, công chúa Da-du-đà-la hạ sanh một tiểu hoàng nam cho Thái tử Sĩ-Đạt-Ta, được đức vua Tịnh-Phạn đặt tên cho cháu nội là La-Hầu-La (Rahula). Cũng vào năm này, Thái tử Sĩ-Đạt-Ta quyết định rời cung điện bắt đầu cuộc sống khất sĩ, du phương cầu đạo để tìm phương thức giải quyết bốn vấn đề lớn là sanh, già, bệnh, chết .

            Chi tiết về cuộc đời, lúc còn là Thái tử, cũng như tiến trình tu chứngthành đạo của Ngài trong 45 năm hoằng pháp được ghi lại trong hai bộ kinh cổ là Nikãya (Pãli) và A-hàm (Sanskrit).

Về lịch sử thì đạo Phật là một học thuyết, là một con đường tu tập để dẫn tới sự khai mở trí huệ tâm linh do đức Phật vốn là một người bình thường như bao người khác, đã tu tập và sáng đạo, đi giáo hóa truyền lại những kinh nghiệm của mình cho người khác.

III. ĐỨC PHẬT “TÔN GIÁO” HAY “HUYỀN THOẠI”

Từ xưa đến nay, muốn thành hình một tôn giáo, ít nhất phải hội đủ một số điều kiện. Đó là phải có một vị Giáo chủ mang một số huyền thoại nào đó khiến cho người ta kính phục tin theo, phải có giáo lý, nghi lễtín đồ của tôn giáo đó.

Khi đức Phật còn tại thế, đạo Phật là một học thuyết, nhằm khai mở trí huệ tâm linh của mọi người. Mục tiêu của đạo Phật là làm sao thoát khổ, giác ngộ, giải thoát. Thời kỳ giáo đoàn nguyên thủy từ lúc đức Phật còn tại thế đến sau khi Ngài viên tịch 100 năm, các thánh đệ tử của Ngài có rất nhiều vị đắc quả A-La-Hán là quả vị cao nhất .

 Sau khi đức Điều Ngự viên tịch, theo dòng thời giankhông gian, đạo Phật muốn sống còn phải nhập thếdần dần trở thành một tôn giáo. So sánh với những điều kiện thành hình tôn giáo nêu trên thì đạo Phật có thể xem như là một tôn giáo, vì nó cũng có đủ các tiêu chuẩn như:

-  Về Giáo chủ: Đạo PhậtGiáo chủđức Bổn Sư Thích Ca. Cuộc đời của Ngài cũng có nhiều huyền thoại, chẳng hạn như Ngài là vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ-tát có tên là Hộ-Minh ngự trên cung trời Đâu Suất, đã tu vô lượng kiếp, chỉ còn một kiếp nữa là thành Phật. Từ cung trời Đâu Suất, Ngài nhìn xuống thế gian tìm cha mẹđạo đức để nhập thai xuống trần tiếp tục tu hành một kiếp cuối cùng và trong kiếp này Ngài đã đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

            - Về Giáo lý: Đức Phậtgiáo lý để giảng dạy cho tín đồ. Số lượng kinh điển chia làm hai: Nikãya (Nam tông) và A-hàm (Bắc tông). Ở Việt Nam, kinh điển Phật học được chuyển sang Việt ngữ, tuy chưa được hoàn toàn đầy đủ, nhưng cũng khá nhiều. Nói chung tổng quát có 4 bộ Nikãya gồm 12,601 bản kinh, chưa kể Tiểu Bộ Kinh. Còn 4 bộ A-hàm gồm 2,086 bản kinh. Tổng cộng, chúng ta thấy đức Phật để lại cho tín đồ 14,687 bài pháp thoại.

            - Về tín đồ: Hiện nay có khoảng hơn 800 triệu tín đồ theo đạo Phật trong số hơn 7 tỷ người trên hành tinh này.

            Trở lại tiểu sử đức Phật tôn giáo hay nói khác hơn là huyền thoại về đức Phật Thích Ca. Như đã nêu trên, Bồ-tát Hộ-Minh lúc bấy giờ ngự trên cung trời Đâu Suất nhìn xuống thế gian tìm gia đình thích hợp để xuống trần. Người mẹ mà Bồ-tát chọn nhập thai là Hoàng hậu Mahã Maya.

            Chuyện kể rằng, Hoàng hậu Maya, vợ vua Tịnh Phạn là một người hiền đức,  đã lớn tuổi rồi mà chưa có con. Một ngày kia, vào buổi trưa, đức Hoàng hậu đang nằm nghỉ ngơi thì rơi vào giấc mộng, đức bà thấy bốn vị thiên thần nâng bốn góc giường bay thẳng lên đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn. Nơi đây có một con voi trắng 6 ngà từ trên trời bay xuống và chui vào hông phải của bà. Hoàng hậu giật mình tỉnh giấc, cảm thấy trong người mát mẻ dễ chịu, tinh thần sảng khoái. Ngay lúc đó, đức bà thọ thai.

            Theo tục lệ Ấn Độ thời bấy giờ, người phụ nữ mang thai phải về quê cha mẹ ruột của mình để sanh nở. Hoàng hậu Maya cũng không ra khỏi tập tục đó . Gần đến ngày khai hoa nở nhụy, trên đường về quê Devadaha, đến vườn Lâm-Tỳ-Ni ở ngay biên giới của hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ), Hoàng hậu ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng chân nghỉ mát, vì nơi đây không khí dễ chịu, thoang thoảng hương hoa nhẹ nhàng trong gió. Đoàn tùy tùng dừng lại. Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi vào ven rừng ngắm cảnh, bà nhìn thấy một cây to có nhiều hoa nở rộ rất đẹp mà trong kinh sách ghi là hoa Linh Thoại, có kinh ghi là hoa Vô Ưu. Tương truyền loại hoa này 3,000 năm mới nở một lần, nhưng nếu hoa nở trái mùa, đó là hoa nở để chào mừng hay báo hiệu sẽ có một vị giác ngộ tương lai sắp ra đời.

            Tiếp theo huyền thoại về đức Phật, chuyện xưa kể rằng, khi Hoàng hậu Maya đưa tay phải lên vịn vào cành cây Vô Ưu thì Thái tử ra đời, Ngài sanh từ bụng mẹ từ bên hông phải. Lúc đó liền có hai vị Phạm thiên xuất hiện đỡ lấy Ngài. Hai vòi nước một ấm một lạnh do hai con rồng từ trên cao phun xuống tắm cho vị Thái tử sơ sanh.

            Tích cũ kể tiếp, tiểu Thái tử vừa lọt lòng mẹ đã bước đi bảy bước, chửng chạc như một thiếu niên, mỗi bước có một đóa hoa sen nở để đỡ lấy chân của Ngài. Đến bước thứ bảy, Thái tử đưa một cánh tay chỉ ngón trỏ lên trời, một cánh tay chỉ ngón trỏ xuống đất, thốt lên câu nói: “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” rồi sau đó Ngài trở lại đời sống một đứa bé sơ sanh bình thường . Câu nói này về sau tùy theo căn cơ tu tập mà các đệ tử của đức Phật giải thích khác nhau.

            Sau khi Hoàng hậu hạ sanh Thái tử tại vườn Lâm-Tỳ-Ni, đoàn tùy tùng vội vàng quay trở về Ca-tỳ-la-vệ. Năm ngày sau đó, đức vua Tịnh Phạn làm lễ đặt tên con trai là Siddhattha (tiếng Sanskrit) âm tiếng Việt là Sĩ-Đạt-Ta, họ là Gotama, âm tiếng Việt là Cồ Đàm

            Theo phong tục thời bấy giờ, nhà vua cho mời nhiều đạo sĩ Bà-La-Môn học rộng tài cao vào triều dự lễ đặt tên và xem tướng cho Thái tử. Có tám vị đạolỗi lạc vào cùng xem tướng cho Thái tử. Bảy vị này đưa lên hai ngón tay và giải thích hai lẽ: Một là Thái tử sau này sẽ trở nên một vị Hoàng đế vĩ đại nhất thế gian, hai là Ngài sẽ đi tu và đắc quả Phật. Riêng đạo sĩ Kiều Trần Như (Kondanna) thì dứt khoát bảo rằng sau này Thái tử sẽ xuất giathành tựu quả Chánh Đẳng Chánh giác.

            Trước đó, có một vị đạo sĩ tên là A-tư-đà (Asita) là một người thân tín của nhà vua, ẩn tu trên núi Hy-mã-lạp-sơn. Nhân chuyến hạ sơn nghe dân chúng loan truyền Hoàng hậu sanh hoàng nam, nên ông xin được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng Thái tử ra đảnh lễ đạo sĩ. Đạo sĩ xem tướng Thái tử rồi tiên tri rằng về sau Thái tử sẽ trở nên bậc vĩ nhân cao quý nhất của nhân loại. Nói xong, ông sụp quỳ lạy Thái tử. Thấy lão đạo sĩ đảnh lễ con mình như vậy, đức vua Tịnh Phạn cũng làm theo đạo sĩ, xá chào con mình. Kế đó, đạo sĩ A-tư-đà bỗng dưng cất tiếng cười rồi lại khóc. Đức vua và mọi người ngạc nhiên trước những cảm xúc vui buồn kỳ lạ của đạo sĩ, hỏi tại sao, thì được đạo sĩ A-tư-đà giải thích rằng ông cười vì vui mừng sau này Thái tử sẽ đắc quả Phật. Ông khóc vì biết rằng không bao lâu nữa ông sẽ bỏ thân này và tái sanh vào cảnh giới Vô Sắc (là cảnh giới mà người đắc thiền sẽ tái sanh vào). Do đó, ông sẽ không được hưởng phước lành thọ giáo với bậc trí tuệ cao siêu.

            Sau lễ đặt tên Thái tử hai ngày, Hoàng hậu Mahã Maya đột nhiên qua đời, trong kinh ghi đức bà được sanh về cung trời Đao Lợi. Lúc bấy giờ Vương phi Mahã Pajãpati Gotami là em ruột của Hoàng hậu Maya, tình nguyện nuôi dưỡng Thái tử cho đến khi Ngài khôn lớn.

           

IV. LỄ HẠ ĐIỀN

            Có một sự kiện đặc biệt xảy ra trong thời thơ ấu của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta. Sự kiện ấy là kinh nghiệm tinh thần của Ngài, là chiếc chìa khoá mở đường sau này cho Ngài tiến đến sự giác ngộ. Câu chuyện kể lại là vào hằng năm, vua Tịnh Phạn đều tổ chức lễ Hạ điền. Đó là một nghi lễ cầu thần linh ban cho mưa thuận gió hòa, trước khi mọi người bắt tay vào việc đồng áng. Ở Ấn Độ, người ta tin đủ các loại thần: Nào là thần mưa, thần gió, thần sông, thần biển, thần núi, thần đất, thần lửa, v.v… Họ tin tưởng tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống của con người đều do thần linh cai quản. Con người phải cúi đầu nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt của các đấng thần linh.

            Buổi sáng hôm đó, đức vua cùng quần thần áo mão chỉnh tề ra tận nơi khán đài hành lễ. Các cung nữ đỡ Thái tử Sĩ-Đạt-Ta ngồi vào kiệu, lính hầu khiêng kiệu đặt dưới bóng mát của một cội cây hồng táo lớn, cách nơi nghi lễ diễn ra không xa. Mọi người dồn về khán đài hành lễ. Các cung nữ có phận sự trông nom Thái tử cũng hướng mắt về phía hành lễ. Thái tử lúc đó còn nhỏ khoảng 9, 10 tuổi, nhưng lại không ham thích cảnh nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử rời kiệu xuống đất, thay vì chạy nhảy vui chơi với các bạn đồng tuổi, Ngài lại ngồi dưới gốc cây hồng táo, tréo hai chân kiết già, trầm ngâm lặng lẽ, mắt lim dim, định tâm vào hơi thởtình cờ nhập định, đắc Sơ Thiền.

            Đang lúc mọi người bận rộn, vui vẻ với cuộc lễ, các cung nữ bỗng sực nhớ tới Thái tử, vội vã quay về với phận sự, thì thấy Thái tử đang ngồi trầm ngâm thiền định. Lấy làm lạ nhưng không dám quấy rầy, một người đến tâu tự sự lên vua Tịnh Phạn. Đức vua Tịnh Phạn hối hả đến nơi, thấy Thái tử vẫn còn trong tư thế nhập định. Đức vua đến trước mặt Thái tử, chắp tay xá chào con và dịu dàng nói: “Này hỡi con yêu quý, đây là lần thứ nhì, phụ vương đảnh lễ con”.  Lần thứ nhất vua Tịnh PhạnThái tử trong ngày lễ đặt tên và lần này vua đảnh lễ Thái tử dù Ngài còn rất nhỏ, theo phong tục của người Ấn khi gặp ai đang trong tư thế nhập định là phải đảnh lễ.

 

V. ĐỜI SỐNG THÁI TỬ SĨ-ĐẠT-TA BỊ BƯNG BÍT

            Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử còn nhỏ mà không ưa thích cuộc sống ồn ào vui chơi như những trẻ con hoàng thân quốc thích xung quanh, nên Ngài rất lo lắng, nhất là mỗi khi nhớ đến những lời tiên tri của các vị đạo sĩ rằng sau này Thái tử sẽ xuất giađắc quả Phật. Trong lòng vua Tịnh Phạn không muốn con mình đi tu, Ngài chỉ muốn huấn luyện cho Thái tử trở thành người tài giỏi xuất chúng về mọi mặt, để sau này lên ngôi thay Ngài trị vì trăm họ.

            Để đạt được mục đích của mình. Nhà vua lên kế hoạch che đậy, bưng bít không cho Thái tử thấy, biết cuộc sống thế gian vốn có nhiều đau khổ phiền lụy. Bao vây chung quanh Thái tử là cuộc sống vương giả, xa hoa, đàn ca, hát xướng, tràn ngập sự hoan lạc. Khi Thái tử được 16 tuổi, theo phong tục thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng Công chúa Da-du-đà-la (Yasodharã), một người em cô cậu cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống cùng Công chúa, Thái tử hoàn toàn sống một cuộc đời vui vẻ hạnh phúc, không hay biết gì về nỗi thống khổ của nhân loại ở bên ngoài thành cung điện. Ngài và Công chúa Da-du-đà-la sinh được một con trai, khiến cho vua Tịnh Phạn hết sức vui mừng, Vua đặt tên cháu nội là La-hầu-la (Rãhula).

 

VI. XUẤT GIA

            Suốt thời gian sống trong cung vàng điện ngọc, được sự chiều chuộng của tất cả mọi người, nhất là vua cha và mẫu hậu cùng Công chúa xinh đẹp Da-du-đà-la luôn để ý chăm sóc, tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất lẫn tinh thần cho Ngài. Một mình Ngài được hưởng thụ mọi thứ vinh hoa trên cõi đời này. Trong kinh Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikãya, phần 1, trg 145) có ghi lời Ngài kể cho đệ tử nghe như sau:

            “ Đời sống của ta thật là tế nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Kasi đưa về. Khăn và áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhứt xứ từ Kasi chở đến.

            “Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương đỡ nắng. Phụ hoàng kiến tạo riêng cho ta ba tòa cung điện. Một để cho ta ở mùa lạnh, một mùa nóng và một mùa mưa. Trong suốt bốn tháng mưa, ta lưu tại một biệt điện có đầy đủ tiện nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được ăn sung mặc sướng chớ không phải như ở các nhà khác, gia đình chỉ được ăn cơm xấu và thức ăn”.

            Bấy lâu nay, trước mặt Thái tử chỉ là cảnh cung vàng điện ngọc, cung tần mỹ nữ đàn ca, hát xướng, quanh năm suốt tháng, là vợ đẹp, là ngôi báu đang chờ đợi.  Đến một ngày nọ, Thái tử xin phụ hoàng ra ngoài thành thăm dân cho biết sự tình. Vua Tịnh Phạn thấy khó lòng từ chối. Ngài ra lệnh cho dân chúng mọi nhà phải cấp tốc giăng đèn kết hoa, trưng bày cảnh thái bình thịnh vượng, Người người phải lộ nét vui vẻ hạnh phúc, nhất là trên những con đường Thái tử đi qua những người nghèo đói bệnh hoạn không được lảng vảng.

            Dù đức vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu cuộc sống đói nghèo của dân chúng chu đáo như thế nào cũng không qua mắt được Thái tử. Sau ba chuyến du ngoạn ngoài thành, Thái tử đã quan sátnhận thấy cuộc sống của con người không hoàn toàn hạnh phúc, mà đời sống của con người quay cuồng trong vòng khốn khổ, như hình ảnh một người già yếu ớt, tóc bạc, da nhăn, mắt mờ, lưng còng, bước đi run rẩy phải nhờ một cậy gậy chống đỡ. Một người bệnh hoạn, đau đớn rên la ngoài đường trông thật thảm thương. Một xác người chết bị đưa lên giàn hỏa thiêu đốt trước sự khóc lóc sầu não của người thân còn sống. Bên cạnh đó, những người xung quanh tất bật lo kiếm sống mỗi ngày, không hề có chút suy tư tìm cách thoát khỏi vòng hệ lụy sanh, già, bệnh, chết đó !

Trở về cung điện Thái tử trầm ngâm suy tư về những hình ảnh đã gặp. Trong lòng Ngài cảm thấy chán ngán cảnh hưởng thụ sung sướng hiện tại trong hoàng cung. Một ngày nọ Thái tử lại rời hoàng cung phóng ngựa ra khỏi hoàng thành đi về phía làng mạc xa xôi. Trên đường đi, Thái tử gặp một vị đạo sĩ Bà-la-môn nghiêm trang khả kính. Xuống ngựa hỏi thăm, được biết vị này là tu sĩ  hiện sống không nhà không cửa, mục tiêu sống của vị này là tu tập để sớm  giải thoát nỗi khổ sanh già bệnh chết. Lần gặp gỡ vị tu sĩ này là nguyên nhân thúc đẩy Thái tử quyết định rời hoàng cung ra đi tìm chân lý giải thoát cảnh sinh, lão, bệnh, tử. Trong kinh Trung A-Hàm (Majjhima Nikãya, Ariyapariyesana Sutta số 26) có ghi lại sự suy nghĩ của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta về vấn đề này như sau:

            “Chính ta phải chịu sinh, già, bệnh, chết, phiền nãoô nhiễm. Tại sao vẫn mải mê chạy theo những điều mà bản chất cũng còn như vậy. Vì chịu sinh, lão, bệnh, tử, phiền nãoô nhiễm, ta đã nhận thức sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái chưa thành đạt, cái tối thượngtuyệt đối của Niết-bàn”.

            Nói về đời sống tại gia, cũng trong kinh Trung A-Hàm số 36, kể lại rằng: “Đời sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi trần ô trược, nhưng đời sống của bậc xuất gia quả thật là cảnh trời mênh mông bát ngát ! Người đã quen với nếp sống gia đình ắt thấy khó mà chịu được Đời Sống Đạo Hạnh Thiêng Liêng với tất cả sự hoàn hảotrong sạch của nó”.

            Nhận định rõ ràng những thích thú vật chất mà phần đông mọi người tranh giành nhau để chiếm hữu, đều không thể đem lại lợi ích vững bền, chỉ có sự xuất gia, từ bỏ tất cả mùi danh bã lợi của trần gian này mới thật là chân giá trị, nên Thái tử dứt khoát rời bỏ cung điện với ngai vàng ngôi vua đứng đầu thiên hạ đang chờ đợi mình, từ giã người vợ dịu dàng, quyền quý xinh đẹp hết mực yêu thương Ngài, và đứa con trai kháu khỉnh dễ thương vừa mới chào đời, để ra đi tìm chân lý tịch tịnh trường cửu. Chấp nhận hy sinh tình cảm riêng tư để ra đi, không phải Thái tử ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho bản thân mình, mà Ngài ra đi để tìm pháp tu hầu tự cứu mình và cứu hàng hàng lớp lớp chúng sanh đang lặn ngụp trong biển khổ, trong đó có phụ hoàng, mẫu hậu và vợ con của Ngài.

            Từ một Thái tử giàu sang vinh hiển tột bậc. Ngài trở thành một đạo sĩ nghèo nàn, không tiền bạc, không nhà cửa, sống nhờ lòng từ thiện của bá tánh thập phương. Ngài không có một nơi chốn nào nhất định. Hôm nay, ngủ dưới gốc cây cao bóng mát, ngày mai tạm trú trong một hang đá vắng vẻ hoang vu… Thế nào cũng được, chỉ cần có thể che mưa đỡ nắng cho Ngài trong buổi trưa hè nắng gắt, hay trong đêm khuya gió mưa lạnh lẽo là được rồi. Chân không giày dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh nắng nóng bức và trong mưa gió lạnh lùng như thế ngày này qua ngày khác. Tất cả xiêm y chỉ là những mảnh vải vụn ráp lại vừa đủ để che thân. Tất cả tài sản chỉ là một cái bát trì bình khất thực. Vật thực xin của bá tánh mỗi ngày chỉ vừa đủ nuôi thân. Ngài tận dụng thời giờnăng lực trong việc tìm kiếm khám phá chân lý.

 

VII. TÌM CHÂN LÝ

            Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc xuất gia tầm đạo đã nhiều lần thất bại, suýt mất mạng. Lúc đầu Ngài lần lượt tìm cầu học với hai vị Thầy dạy thiền Yoga nổi tiếng thời đó là đạo sĩ Alãra Kãlama và Uddaka Rãmaputta.

            Học với đạo sĩ Alãra Kãlama, không bao lâu Ngài đắc quả “Vô Sở Hữu Xứ” nghĩa là “Chỗ không có gì”. Đây là trạng thái tâm thức thiền gia cảm nhận “không có gì” chung quanh mình trong lúc tọa thiền cũng như sau khi xả thiền. Trong tiến trình này, tuy tâm không dao động, không rối loạn trước các đối tượng (vì đối tượng không là gì), nhưng vẫn còn tự ngã và ý thức cho nên ngã và pháp đều có mặt. Kết quả không đáp ứng được mục đích thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, nên Ngài từ giã vị Thầy ra đi tìm pháp khác, mặc dù vị Thầy này đã ân cần mời Ngài ở lại để cùng hướng dẫn đồ chúng.

            Ngài ra đi tìm học đạo với vị thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rãmaputta. Lần này chỉ trong ba tuần ngắn, Ngài đã được vị thầy này ấn chứng cho đã đạt được quả vị cao nhất của hệ thống thiền Yoga là “Phi tưởng phi phi tưởng xứ” . Đây là trạng thái “không tri giác, mà cũng không không tri giác”, nói cách khác là “hoàn toàn không nhận thức điều gì đối với môi trường xung quanh”, khi đó niệm biết rõ ràng không xuất hiện, cho nên thiền giả không biết, mà cũng không không biết nên chìm đắm trong ảo tưởng. Ngài nhận thấy loại định này không đưa đến thượng trí và giác ngộ, bởi tâm ở trong định mà không biết gì cả! Vì thế, dù được vị thầy thứ hai này ấn chứngngỏ ý giao tất cả đồ chúng để Ngài cai quản, hướng dẫn họ tu tập, nhưng Ngài nhã nhặn từ chối. Một lần nữa Ngài từ giã vị thầy thứ hai để ra đi.

            Lang thang qua xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp năm anh em đạo sĩ Kiều Trần Như. Cùng với họ, Ngài bắt đầu pháp tu khổ hạnh. Thời đó, các vị tu sĩ quan niệm là phải đì thân thật khốc liệt để cảm giác đau đớn nổi lên đè bẹp những ham muốn dục vọng thì mới đạt được đạo quả. Các tu sĩ thời đó cho rằng đây là con đường duy nhất, không còn con đường nào khác để đạt Niết-bàn.

            Trong vòng sáu năm (kể cả thời gian tu học với hai vị thầy Yoga), đạo sĩ Cồ Đàm nổi tiếng khắp nơi về pháp tu khổ hạnh. Có lúc Ngài tu theo hạnh con chó, hạnh con bò, có lúc Ngài tu hành xác khốc liệt như ngủ trên gai nhọn, đứng ngủ một chân, đêm khuya lạnh lẽo trầm mình dưới dòng sông, hay nằm chịu đựng cho tuyết rơi phủ cả thân mình. Có lúc Ngài tu hạnh ở dơ không tắm, không cạo râu, tu hạnh nhịn ăn nhịn uống, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, uống mấy giọt sương, rồi Ngài muốn tuyệt thực không ăn không uống, v.v… Ngài tự khép mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ, cho đến ngày kia thân hình tráng kiện của Bồ-tát chỉ còn da bọc bộ xương. Ngài xứng danh là đệ nhất khổ hạnh, được mọi người tôn là Thánh nhân.

 

VIII. CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO

            Tu khổ hạnh khắc nghiệt như thế mà Bồ-tát cũng không tìm ra được manh mối gì. Tiếc thay, càng đì thân khốc liệt bao nhiêu thì Ngài càng rời xa mục tiêu đi tìm Niết-bàn bấy nhiêu. Thực ra, lúc đó Ngài cũng không biết trạng thái Niết-bàn là trạng thái như thế nào? Ngài chỉ nghĩ đó là trạng thái không phiền não nếu đã tận diệt mọi hình thức ái dục.

            Sau sáu năm dài đày đọa thân thể, tuy thân của Ngài càng lúc càng tiều tụy, hai mắt như hai hố thẳm, da nhăn nheo, tóc lông đụng tới đâu thì rụng tới đó. Thân gầy ốm da bọc xương, đi đứng không vững, nhưng tâm Ngài vẫn cương quyết không thay đổi pháp tu. Cho đến một ngày kia, Ngài té xỉu ở bìa rừng, may nhờ cô bé chăn cừu cứu sống bằng một chén sữa. Khi tỉnh dậy, Ngài tỉnh ngộ, nhận ra sự sai lầm của pháp tu khổ hạnh. Ngài nhận ra thân này là quý. Nếu thân kiệt quệ, mệt mỏi, thì tinh thần cũng kiệt quệ, mệt mỏi, không thể suy nghĩ được điều nào đúng, điều nào sai, nói chi là tìm ra được chân lý thoát khổ? Ngài liền dứt khoát bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan này. Ngài cho rằng lối sống hoan lạc lợi dưỡng thời còn ở trong hoàng cung làm chậm trễ tiến bộ đạo đức, và lối sống khổ hạnh khốc liệt này chỉ có hại cho thân và tâm chứ không đưa đến một ích lợi nào trên con đường tâm linh.

            Bây giờ Ngài chọn con đường độc lập, tức con đường trung đạo, không cực đoan lợi dưỡng cũng không cực đoan khổ hạnh. Ngài nhận ra mình phải biết quý cái thân này, phải nuôi dưỡng nó khỏe mạnh hầu mượn nó để mà tu. Con đường trung đạo lúc bấy giờ là như thế ! Nhưng sau khi thành đạo đi giáo hóa, con đường trung đạo trong đạo Phật không có nghĩa là con đường trung dung giữa hai thái cực tu hành. Trung đạo, hiểu theo đúng lời dạy của đức Phậtxa lìa các biên kiến như Ngài dạy bài học về Chánh Kiến. Chánh kiến là cái nhìn, cái hiểu biết đúng. Nó tương phản với biên kiến bị xem là tà kiến. Trung đạo vượt qua sự phân biệt hữu và phi hữu, vượt qua hai cực đoan có và không. Trong kinh Tương Ưng Bộ, chương XV, Kaccàyanagotta (Ca-chiên-diên Thị), Phật dạy tôn giả Tán-đà Ca-chiên-diên rằng: “7) “Tất cả là có”, này Kaccàyana, là một cực đoan. “Tất cả là không có” là cực đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kacc àyana, Như Lai thuyết pháp theo Trung đạo”.

 

IX. THÀNH ĐẠO

            Khi Bồ-tát tuyên bố chấm dứt pháp tu khổ hạnh, năm người bạn đồng tu rời bỏ Ngài ra đi vì cho rằng Ngài đã bỏ cuộc quay về cuộc sống lợi dưỡng. Bồ-tát đi dọc theo bờ sông Ni-liên-thiền hướng về khu rừng cây rậm rạp khác cách xa làng mạc, ngày nay nơi đó là Bồ-đề-đạo-tràng. Tại nơi đây vắng vẻ, không bóng người qua lại. Ngài chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau này người ta gọi cây đó là cây Bồ-đề. Ngài trải cỏ Kusha  làm tọa cụ, quyết chí tham thiền và thề nếu không chứng đạo dù nát thịt xương tan, Ngài cũng sẽ không rời khỏi cội cây này.

            Nhớ lại pháp thở khi còn nhỏ, bây giờ thử lại Ngài đạt được kinh nghiệm khi xưa, nếu không nói là tâm mỗi lúc mỗi chìm vào định sâu hơn ! Thế là Ngài quyết định chọn pháp này để thiền địnhquán chiếu cho đến khi tìm ra được chân lý cao sâu thâm diệu giải quyết bài toán phức tạp thoát ra khỏi sinh, già, bệnh, chết.

            Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đã lần lượt nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiềnTứ thiền. Khi tâm Ngài hoàn toàn định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sai khiến…. Ngài hướng tâm về tuệ giác liên quan đến sự nhớ lại những kiếp quá khứ của chính mình. Tất cả những gì xảy ra từ nhiều kiếp quá khứ hiện ra trong nhận thức của Ngài như cuốn phim trước mặt. Sanh ra, chết đi, tái sanh… hết đời này qua đời khác… Làm con người này, làm con người kia… như thế nào Ngài đều rõ biết ! Đây là tuệ giác đầu tiên Ngài chứng ngộ vào lúc canh Một của đêm thành đạo trong kinh ghi là Túc Mạng Minh.

            Phá tan được lớp vô minh, tự mình nhìn ra được vô số kiếp của mình.  Bây giờ Ngài mới hướng tâm về sự hiểu biết hiện tượng sanh, diệt của chúng sanh. Với tuệ nhãn tinh khiếtsiêu phàm, Ngài thấy sự sống và sự chết của chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, v.v… Tất cả đều trải qua sanh rồi diệt, diệt rồi sanh… tùy theo hành vi tạo tác xấu tốt, thiện ác của mỗi người mà thọ sanh luân hồi trong sáu cõi: Trời, người, Atula, súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Ngài chứng ngộ Thiên Nhãn Minh trong canh giữa của đêm thành đạo, Ngài mục kích sự phân tán và sự cấu hợp trở lại của chúng sanh tùy theo nghiệp của họ đã gây ra.

            Tiếp theo, Ngài hướng tâm thanh tịnh về sự hiểu biết chấm dứt các pháp trầm luân, nhận ra lậu hoặcnguyên tố khiến con người khổ đau chịu luân hồi sanh tử. Tiếp theo, Ngài chứng ngộ bốn Chân lý: Khổ đế, Tập đế, Diệt đếĐạo đế. Khi trời hừng sáng, Ngài chứng Lậu Tận Minh. Bấy giờ Ngài biết mình đã giải thoáthoàn toàn sạch hết lậu hoặc. Trong kinh Trung Bộ 1, Đại kinh Saccaka, số 37, ghi lại nhận thức của đức Phật như sau: “Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm hạnh đã viên mãn, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”.

            Màn vô minh hoàn toàn được giải tỏa và trí huệ của Ngài đã bừng sáng. Đêm tối đã tan, ánh sáng tràn ngập. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc đó 35 tuổi. Sau sáu năm dài đằng đẳng, không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cũng không có sự hướng dẫn từ một năng lực siêu phàm nào. Ngài cô độc một mình, tự nỗ lực chiến đấu với chính mình, tự thắp đuốc mò mẫm đi trong đêm tối. Kết quả đã tận diệt mọi ô nhiễm (lậu hoặc) chấm dứt mọi tiến trình tham áichứng ngộ thực tướng của vạn pháp, đã trở thành một vị Phật lịch sử, mà sau mấy ngàn năm, tư liệu Phật sử vẫn còn để lại:

- Cha: Đức vua Tịnh Phạn nước Ca-tỳ-la-vệ (Bắc Ấn Độ).

            - Mẹ: Hoàng hậu: Mahãmaya, băng hà sau khi hạ sanh Thái tử 7 ngày.

            - Mẹ kế: Vương phi Mahã Pajãpati Gotami (là dì ruột của Thái tử)

            - Ngày sanh: Rằm tháng Tư Âm lịch tại vườn Lâm-Tỳ-Ni, nước Nepal.

            - Kết duyên với công chúa Da-du-đà-la năm 16 tuổi.

            - Năm 29 tuổi có con trai đầu lòng là La-Hầu-La.

            - Xuất gia: Ngày mồng 8 tháng Hai, Âm lịch vào năm 29 tuổi.

            - Thành đạo: Ngày mồng 8 tháng 12, năm 35 tuổi tại Buddha Gaya, Ấn Độ.

- Hoằng pháp: 45 năm.

- Nhập Niết-bàn: Ngày Rằm tháng Hai, thọ 80 tuổi, tại Kusinãrã, Ấn Độ.

- Hiện nay, vẫn còn các Thánh tích (tứ động tâm) ghi lại những nơi đức Phật đã đi qua, do các nhà khảo cổ học người Anh tìm thấy như:

- Lâm-Tỳ-Ni là nơi đức Phật đản sanh.

- Bồ-đề-đạo-tràng (Buddha Gaya khoảng 10 cây số cách nhà ga xe lửa Gaya) là nơi đức Phật thành đạo.

- Vườn Lộc Giả, bây giờ là Sarnath, Ấn Độ, là nơi đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên, giảng bài kinh Tứ Diệu ĐếVô Ngã Tướng, độ cho năm anh em Kiều Trần Như đắc quả A-La-Hán.

- Kusinãrã, bây giờ gọi là Kasi, khoảng 40 cây số cách nhà ga Gorakhpur, Ấn Độ, là nơi đức Phật diệt độ.

 

X. KẾT LUẬN

Đức Phật Thích Ca được tôn vinh là Giáo chủ của tín đồ Phật Giáocõi Ta Bà này. Cuộc đời của Ngài cũng có một huyền thoại rất hy hữu. Ngài để lại một kho tàng giáo lý giá trị. Đạo Phật có khoảng trên 800 triệu tín đồ trên thế giới có hơn 7 tỷ người, và đạo Phậthệ thống nghi lễ hẳn hoi. Như vậy, đạo Phật cũng có thể được xem như là một tôn giáo, mà hễ tôn giáo thì vị Giáo chủ ấy có nhiều huyền thoại về cuộc đời cho nên chúng ta mới có Đức Phật huyền thoại.

Ngược lại, trong kinh điễn Phật giáo để lại, người ta thấy rằng Ngài không hề nhận mình là Giáo chủ, mà chỉ là người thầy trao truyền những phương pháp tu tập, những kinh nghiệm mà Ngài đã trải qua cho những người muốn tu tập để thoát khổ giải thoát. Từ đó Ngài được người ta tôn xưng Ngài là vị Phật lịch sử duy nhất trên cõi đời này.

Học Phật, chúng ta biết rằng khi đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài đã không nhận mình là thần linh, là thượng đế, nên Ngài không ban phép lành hay cứu rỗi cho bất cứ ai. Ngài chỉ để lại một học thuyết mà qua sự tự tu, tự chứng của Ngài, cho những ai tin và theo học. Về mặt cộng đồng xã hội, học thuyết đó chủ yếu ở các khái niệm thiện tâm, nhân áibình đẳng. Về mặt tâm lý, Ngài để lại một kinh nghiệm tu tập để con người thoát khỏi sự kiềm tỏa của sự đau khổ để được sống trong trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Niết-bàn.

Đối với giáo lý nhà Phật thì Niết-bàn chính là trạng thái tĩnh lặng, trong sáng, trí tuệ, không vướng mắc với mọi tham ái hay phiền muộn trên cõi đời này. Người nào kinh nghiệm trạng thái Niết-bàn là người đó thoát khổ, giải thoát. Như vậy Niết-bàn không phải ở đâu xa, mà nó ở ngay trong tâm của người liễu đạo bây giờ và ở đây!

Lời kết: Nhân ngày lễ Phật Đản, chúng ta nghĩ tưởng về vị khai sáng đạo Phật với lòng biết ơn qua hai truyền thống: Lịch sử và huyền thoại, để nhận ra rằng truyền thống nào cũng mang lợi lạc đến cho chúng sanh.

                             

Nam Mô Đản Sanh Bồ-tát Ma-ha-tát
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
25/5/2021
(Chân Tâm thiền thất , Richmond, Texas)

                               

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1377)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1711)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1255)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
11 Tháng Năm 20239:41 SA(Xem: 1771)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
10 Tháng Năm 20237:33 CH(Xem: 1334)
Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.
02 Tháng Năm 202312:58 CH(Xem: 1726)
Mười Hai Duyên Khởi, cũng còn gọi là Mười Hai Nhân Duyên, là 12 nhân duyên liên kết nhau để hợp thành một chuỗi nhân quả (P: nidāna). 12 nhân duyên như 12 mắt xích hay 12 nguyên nhân đưa đến tình trạng Khổ của con người hay tái sinh.
30 Tháng Tư 20238:57 CH(Xem: 1470)
Der Buddha sagte: "Der Tathagata ist nur ein Wegweiser, alleine musst du gehen." Das heißt, du kennst nun den Weg, gehst alleine hin, verlass dich auf niemanden, der richtige Weg ist deine Weisheit, die dich zu deinem ursprünglichen Geist zurückbringt. Im ursprünglichen Geist sind alle Phänomene Buddha-Dharmas, und die Welt ist ein reines und glückliches Nirwana.
24 Tháng Tư 20236:07 CH(Xem: 1315)
Trong thiền Phật giáo có nhiều nguyên lý tâm linh dẫn đến mục tiêu cứu cánh là chuyển hóa tâm, cân bằng thân-tâm, phát triển tuệ giác, và giải thoát.
17 Tháng Tư 202310:01 SA(Xem: 1955)
Thiền Tánh Không do Hòa Thượng Thiền Chủ Thích Thông Triệt thiết lập, kết hợp những tinh hoa rút từ tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca, các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, Thiền Tông và kỹ thuật Thiền, được soi sáng bởi các khám phá đương thời của khoa học não bộ và các chứng ngộ của Thầy thành một hệ thống tu thiền sâu sắc, tân thời, rõ ràng và hiệu quả.
11 Tháng Tư 20237:56 CH(Xem: 2046)
Vai trò của khoa học não bộ rất quan trọng. Đây là kiến thức thời đại. Chúng ta mượn khoa học não bộ để đối chiếu cách thực hành của chúng ta qua Pháp của Phật. Có như thế chúng ta mới chứng minh được giá trị Pháp của Phật đối với mọi trình độ căn cơ. Chúng ta biết vì sao chúng ta thực hành sai, vì sao chúng ta thực hành đúng.
01 Tháng Tư 20239:35 SA(Xem: 1555)
Wir befinden uns mitten in einem wirbelnden Wasserstrudel, würden wir darin stehen bleiben, würden wir von dem absorbiert werden und wir werden ertrinken. Wenn wir uns bewegen würden, würden wir uns auch nur in diesem wirbelnden Strudel herum drehen. Aber wie können wir denn diesem Lebenskreis entkommen?
26 Tháng Ba 20237:30 CH(Xem: 1997)
Đã không biết bao năm qua, mình khờ dại đi tìm “Qua khỏi vùng sương mù là xứ thần tiên”. Đã bao lần thấy vùng sương mù, bao lần mơ ước sẽ gặp xứ thần tiên, nào có gặp được. Tìm cầu bên ngoài, làm sao có xứ thần tiên. Cuối đời mới biết xứ thần tiên thiệt ở trong tâm của mình.
24 Tháng Ba 202310:02 CH(Xem: 2070)
Đức Phật tự nhận: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, các ông phải tự đi”. Các ông phải tự đi có nghĩa là các ông thấy ra con đường rồi, cứ tiến bước một mình, không được ỷ lại nơi ai khác, con đường chánh pháp là trí tuệ của mình sẽ đưa chúng ta trở về bản tâm. Trong bản tâm, tất cả pháp đều là Phật pháp, và thế gian là cõi Phật thanh tịnh an vui.
24 Tháng Ba 202310:18 SA(Xem: 1252)
Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần, như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.
22 Tháng Ba 20234:26 CH(Xem: 1639)
Không phải hễ ngộ là chấm dứt hết lậu hoặc! Vì vậy, tuy hạt ngọc đã có sẵn, nhưng ta phải nỗ lực dụng công. Vô ngôn chính là phương thức làm cho Phật tánh bật ra vậy.
18 Tháng Ba 20239:58 SA(Xem: 1517)
Wir müssen in der Lage sein, zu erkennen, wann wir den Bedingungen folgen sollen und wann wir eventuell andere Bedingungen schaffen sollen, um im Einklang mit dem Universum leben zu können, denn wir sind die Schöpfer unseres Lebens, für jetzt und für die Zukunft.
15 Tháng Ba 202311:03 CH(Xem: 1997)
Thực tập phương thức làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi (phải-trái) của thế gian.
13 Tháng Ba 202311:02 SA(Xem: 1193)
Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra...
08 Tháng Ba 20238:24 CH(Xem: 1813)
Hôm nay, thấy hoa thủy tiên nở rộ, hoa mai cũng e ấp đón gió mát, con biết mùa xuân sang. Đã tới mùa mừng sinh nhật Thầy. Thầy đã xuất hiện nơi cõi đời nhằm mùa xuân, Thầy đã thấy con đường, cũng một mùa xuân năm đó, rồi Thầy ra đi, một đêm cuối mùa đông.
08 Tháng Ba 20238:17 CH(Xem: 1687)
Chúng ta đang ở giữa biển nước xoáy, nếu chúng ta đứng lại nơi đó thì ta sẽ bị đắm chìm cuốn hút và chết đuối. Nếu chúng ta bước tới, cũng chỉ là loanh quanh trong biển nước xoáy thôi, bước tới hay bước lùi, có khác gì đâu, rồi cũng trôi giạt bồng bềnh trong biển đời, không ra khỏi. Vậy thì làm sao đây?
05 Tháng Ba 20239:03 CH(Xem: 1462)
GEDANKE heißt in Chinesisch “mạt na”. Wahrscheinlich wurde es aus dem Wort “Manah oder Manas“ in Sanskrit übersetzt. “mạt na” (S: Manah) oder Gedanke bedeutet die Denkfähigkeit oder das Denkvermögen. In English heißt er “the capacity of thought”, “the thinking faculty”. In Pali bedeutet das Wort Mano der Geist oder der Gedanke. Im Abhidharma wird Manha gleichgesetzt mit Bewusstsein (viññāna) und Geist (citta, Bewusstseinszustand).
05 Tháng Ba 20239:01 CH(Xem: 1132)
Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
28 Tháng Hai 20239:06 CH(Xem: 2396)
Chúng ta phải sáng suốt biết lúc nào nên tùy duyên, lúc nào phải tạo duyên tốt, phải biết mình sống có thuận pháp không, vì chính mình là chủ tạo ra cuộc đời của mình, trong bây giờ và mai sau nữa.
27 Tháng Hai 20238:19 CH(Xem: 1920)
Việc làm bếp đâu có khác việc tu tập. Làm bếp để sống, thì tu tập cũng để sống thôi. Cho nên những nguyên tắc để làm bếp tốt cũng là những nguyên tắc để tu tập tốt. Việc gì ta làm cũng là tu tập, con đường đời cũng là con đường tu, do nơi cái tâm của mình, nó thấy ra sao. Nó thấy ra sao, đó là cảnh giới mình đang sống.
25 Tháng Hai 20232:42 CH(Xem: 1788)
Trời đất vô tình, vạn vật vô tình, mà vạn vật biết sống hài hòa với hoàn cảnh tự nhiên. Chúng ta có trí, có tri giác, có tình cảm, vậy phải biết sống đời thiện lành, quan sát tâm mình từng giây phút, ý nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng...
23 Tháng Hai 20237:55 SA(Xem: 1247)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.
18 Tháng Hai 20232:24 CH(Xem: 1435)
Das Naturgesetz regelt alle Phänomene. Es ist gleichzeitig ihr Evolutions- und Entwicklungsgesetz. Es gründet das Universum, regelt den Ablauf des Universums, schützt und pflegt die Existenz des Universums. Die Welt ist offenbar eine wunderbare Harmonie von Idappaccayatā.
14 Tháng Hai 20233:56 CH(Xem: 1602)
Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã...
13 Tháng Hai 202310:37 SA(Xem: 1596)
Mạt na hay Ý có nghĩa năng lực của tư tưởng hay năng lực tư duy, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM
05 Tháng Hai 20236:14 CH(Xem: 1757)
Tánh giác không từ đâu đến. Nó không nằm trong quy luật duyên sinh của hiện tượng. Ta không thể khám phá nó khởi ra từ đâu khi có sự xuất hiện của con người trên quả đất.
28 Tháng Giêng 20237:39 SA(Xem: 1399)
Realität ist nicht 100%ig echt aber auch nicht 100%ig illusorisch. Oder „Das Gerade jetzt“ existiert, ist „echt“ und gleichzeitig „illusorisch“. Oder In der Realität ist eine Illusion vorhanden und in der Illusion existiert eine Realität.
25 Tháng Giêng 202311:14 SA(Xem: 1914)
Định luật Y Duyên Tánh vận hành tất cả thế gian. Nó cũng là định luật biến hóa và phát triển, là sức sống mãnh liệt, đã thành lập vũ trụ, điều hành vũ trụ, và bảo vệ duy trì sức sống của vạn vật. Thế gian biểu hiện sự hài hòa tuyệt vời theo sự biến hóa khách quan của “Y Duyên Tánh”. Vậy, các bạn thân ơi, đây có phải là một bức tranh puzzle tuyệt vời không?
24 Tháng Giêng 20233:16 CH(Xem: 1581)
Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được thọ thanh tịnh. Người còn nhiều dính mắc không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.
18 Tháng Giêng 20237:43 CH(Xem: 2227)
Đất trời quê hương đang vào xuân, mong gởi một món quà nhỏ tặng cho bạn tri âm, mùa xuân trong tâm mình.
18 Tháng Giêng 20237:51 SA(Xem: 1527)
Der Buddhismus betrachtet die „Geburt“ nicht als Beginn eines neuen Lebens sondern die Geburt beginnt bereits mit dem Tod, dann folgt eine Rückkehr und eine erneute Geburt. Diesen Zyklus: Geburt und Tod, Werden und Vergehen, nennt man im Buddhismus den Daseinskreislauf (Samsara) und Alter ist ein Teil dieses Lebenskreislaufs.
17 Tháng Giêng 20231:21 CH(Xem: 1375)
Cái gì được nhận ra đầu tiên trong một sát na, và nhận rõ cuối cùng qua những chuỗi sát na tiếp theo, là đối tượng của nhận thức.
69,256