HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Nữ Hằng Như: HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ “KINH VU-LAN-BỒN”?

17 Tháng Tám 202110:16 SA(Xem: 2791)

HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ

KINH VU-LAN-BN”?

                                                                                                       ------------------

Thích Nữ Hằng Như

 Thích Nữ Hằng Như HỌC ĐƯỢC GÌ TỪ “KINH VU-LAN-BỒN”
I. DẪN NHẬP

Hôm nay là ngày 15/8 dương lịch nhằm ngày mồng Tám tháng Bảy, Tân Sửu. Chỉ còn một tuần nữa là tới Rằm tháng Bảy. Rằm tháng Bảy âm lịch là ngày mà các chùa theo đạo Phật khắp nơi trên thế giới đều tổ chức Lễ Vu-Lan rất trọng thể. Lễ Vu-Lan từ lâu đã được xem như là ngày Lễ Báo Hiếu của những người con dành cho bậc cha mẹ. Hòa cùng nhịp tim của những người con thảo luôn nghĩ nhớ đến công ơn dưỡng dục sanh thành của cha mẹ nhất là vào mùa Vu-Lan báo hiếu này. Hôm nay chúng tôi muốn cùng quý vị tìm hiểu ý nghĩa bài kinh quan trọng luôn được tụng đọc trong ngày đại lễ Vu-Lan tổ chức tại các chùa Phật giáo Bắc tông. Đó là “Kinh Vu-Lan-Bồn” hay “Phật thuyết Vu-Lan-Bồn kinh” .

Trước khi đi vào nội dung của bài kinh, chúng ta tìm hiểu ý nghĩa của tựa đề “Phật thuyết Vu-Lan-Bồn Kinh”như thế nào?

- Phật thuyết: Đây là những lời giảng dạy của đức Phật Thích Ca.

- Vu-Lan hay Vu-Lan-Bồn: Do người Trung Quốc phiên âm từ tiếng Phạn là “Ullambana” là Vu-Lan hay Vu-Lan-Bồn.

- Ullambana: Nghĩa là “giải đảo huyền” hay “cứu đảo huyền”.

- Giải: Có nghĩa là giải tỏa, giải phóng, giải thoát, cứu thoát ra khỏi nỗi khổ  nào đó.

- Đảo:  Là đảo ngược, dốc đầu xuống đất, chân đưa lên trời.

- Huyền: Là treo.

- Đảo huyền: Ý nói  nỗi khổ bị treo ngược.

- Giải đảo huyền: Có nghĩa là tháo bỏ các cực hình bị treo ngược.

- Bồn: (phát âm từ chữ bana): Là vật đựng thức ăn, thức uống. Như bồn đựng nước hay thau đựng nước hoặc khay hay mâm. Ở đây bồn có thể xem như là khay hoặc mâm đựng lễ phẩm thức ăn dâng lên chư Tăng trong ngày Lễ Vu-Lan.

Theo tinh thần của kinh Vu-Lan, cái khổ tàn khốc nhất của chúng sanh là bị đọa vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, “giải đảo huyền” là tháo gở cực hìnhbị treo ngược” tức là tháo gở cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷđịa ngục.

 
II. TÌM HIỂU Ý NGHĨA “KINH VU-LAN-BỒN”

“Kinh Vu Lan Bồn” hay “Phật thuyết kinh Vu-Lan-Bồn ” là một bản kinh ngắn thuộc bộ “Hiếu kinh” trong Phật giáo, do Pháp sư Trúc-Pháp-Hộ người nước Nguyệt Thị, Thiên Trúc (Ấn Độ) đến Trung Quốc hoằng pháp lợi sanh. Pháp sư đã phiên dịch kinh này từ Phạn văn sang Hán văn vào khoảng thế kỷ thứ III sau Tây lịch. Bản kinh tiếng Hán này đã được dịch sang tiếng Việt qua thể văn và thể thơ. Bài kinh hôm nay chúng tôi chọn là bài kinh thể văn xuôi trích trong Bộ Kinh Tập số 10 (T0685) thuộc“Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh”.

Kinh kể lại nguồn gốc và phương pháp báo hiếu của tôn giả Mục-Kiền-Liên đối với thân mẫu của ngài. Đại ý quan trọng của kinh này là: Tôn giả Mục-Kiền-Liên dùng pháp Vu-Lan-Bồn do Phật dạy để cứu mẹ. Pháp Vu-Lan-Bồn không những cứu được cha mẹ hiện đời, mà còn có thể cứu được cha mẹ bảy đời quá khứ.

Chúng ta có thể chia nội dung bài kinh thành 3 phần: (1) Nguồn gốc của pháp báo hiếu; (2) Phương pháp báo hiếu; (3) Báo hiếutrách nhiệm chung của tất cả những người con.

 

A-1. VĂN KINH:

“Tôi nghe như vầy;

“Một thời, Đức Phật trú tại vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc trong thành Xá Vệ.  Bấy giờ Trưởng giả Đại Mục-Kiền-Liên mới chứng đắc sáu thứ Thần thông, muốn cứu độ cha mẹ để báo ân đức sâu dày dưỡng dục, bèn dùng Đạo nhãn quan sát khắp thế giới, thấy người mẹ đã qua đời của mình bị đọa trong loài ngạ quỷ, không được ăn uống nên thân hình chỉ còn da bọc lấy xương. Tôn giả Mục-Liên thấy vậy vô cùng xót thương, buồn bã, liền lấy bát đựng đầy cơm và vận dụng Thần thông đem hiến dâng cho mẹ. Bà mẹ vừa nhận được bát cơm, liền dùng tay trái che đậy, tay phải bốc ăn, cơm chưa vào miệng đã hóa thành than hồng nên không thể ăn được. Tôn giả Mục-Liên lớn tiếng kêu khóc trở về bạch Phật, thuật lại đầy đủ  mọi việc như vậy. (hết trích)

         

B-1. TÌM HIỂU Ý NGHĨA KINH:

          - Đạo nhãn: thiên nhãn do đắc đạo mà có được.

          - Sáu thứ thần thông: Sáu loại này không bị ngăn che chướng ngại nên gọi là “thần thông”.

          (1) Thần túc thông: Phép biến hóa, có thể xuyên qua tường, qua núi, qua sông, qua biển v.v…

          (2) Thiên nhãn thông: Xa thế nào cũng nhìn thấy được, không gì cản trở tầm nhìn.

          (3) Thiên nhĩ thông: Thính giác không bị chướng ngại.

          (4) Tha tâm thông: Biết và hiểu được những suy nghĩ của người khác.

          (5) Túc mạng thông: Biết được những việc nhiều đời trong quá khứ.

          (6) Lậu tận thông: Sạch lậu hoặc, chứng Tứ quả (A-la-hán), thoát khỏi luân hồi sinh tử trong tam giới hữu lậu (dục giới, sắc giới hay vô sắc giới)

- Nội dung đoạn kinh này nói về nguồn gốc phát sinh pháp báo hiếu:

          Do duyên tôn giả Mục-Kiền-Liên cầu cứu đức Phật dạy cách cứu mẹ thoát kiếp ngạ quỷ, nên pháp báo hiếu mới có cơ hội ra đời. Bài kinh kể lại vào thời gian đó, đức Phật đang trú tại tịnh xá trong vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc thuộc thành Xá Vệ, nước Kiều-Tát-La. Khi ấy ngài Mục-Kiền-Liên vừa thành tựu sáu phép thần thông là: Thần túc thông, Tha tâm thông, Thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, Túc mạng thôngLậu tận thông. Ngài muốn cứu độ cha mẹ để đền ơn dưỡng dục, nên dùng thiên nhãn quan sát khắp tam giới, tìm thấy mẹ của ngài bị đọa làm ngạ quỷđịa ngục, thân hình gầy ốm da bọc xương vì không được ăn uống. Tôn giả là vị thánh Tăng tu hành chứng đắc, tuy biết rõ nghiệp chướng của ngạ quỷ không thể thọ thực, nhưng thấy mẹ chịu khổ như vậy, là người con hiếu thảo, ngài không thể làm ngơ, liền vận thần thông xuống địa ngục dâng bát cơm đầy cho mẹ.

Trong kinh ghi lại cảnh mẹ của tôn giả Mục-Kiền-Liên,  khi nhìn thấy bát cơm đã vội vàng lấy tay trái che bát cơm, tay phải bốc ăn. Hành động lấy “tay trái che bát cơmbiểu lộ tánh ích kỷ, sợ người khác cướp giựt cơm của mình, và “tay phải bốc ăn” biểu lộ tánh tham, không quan tâm đến người khác cũng đang đói như mình. Đó là do thói quen tham lam bỏn xẻn lúc còn sống, theo bà đến kiếp ngạ quỷ này. Nếu thay bằng hành động khác như nghĩ đến sự đói khát của chúng ngạ quỷ xung quanh, phát tâm chia xẻ cơm với người cùng khổ như mình, biến lòng “bỏn xẻn tham lam” thành “từ bi bố thí” thì có lẽ cơm đã không hóa thành than lửa. Nhưng sống kiếp ngạ quỷ, thì quỷ nào cũng đói, quỷ nào cũng tham lam sân hận, có còn tâm trí đâu mà lo cho chúng quỷ khác. Đã thế nơi âm u đó, đâu có ai khai thị soi sáng để chuyển đổi tâm thức, cho nên chúng quỷ chìm đắm triền miên trong nỗi khổ đói khát không biết bao giờ mới được giải thoát.

 Do không có cách nào giúp được mẹ, nên tôn giả Mục-Kiền-Liên ôm mối thương xót mẹ trở về trần gian bạch lên đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài chỉ phương cách cứu mẹ.

 

A-2. VĂN KINH (tiếp theo):

“Đức Phật bảo:

“Mục-Liên! Thân mẫu của ông tội chướng sâu dày, không phải năng lực một mình ông có thể cứu được. Tuy lòng hiếu thảo của ông vang động đất trời, những thiên thần, địa thần, tà ma ngoại đạo, đạo sĩ, và bốn vị Thiên Vương cũng không thể làm gì được. Nay ông phải nhờ vào oai lực của Tăng chúngmười phương thì mới có thể cứu mẹ ông siêu thoát được. Nay ta chỉ dạy cho ông phương pháp cứu tế để cho tất cả những kẻ khổ nạn cũng được siêu thoát.

“Này Mục-Liên! Ngày Rằm tháng Bảy là ngày Tự tứ của mười phương Tăng chúng, nên vì cha mẹ bảy đời, cha mẹ hiện tại, những người đang ở trong vòng khổ nạn luân hồi,  mà sắm sửa đầy đủ cơm, thức ăn, năm thứ trái cây, bồn chậu múc nước, hương dầu đèn nến, giường chõng, đồ nằm đầy đủ, đều là loại tươi ngon, tốt đẹp ở đời để dâng cúng đại đức chúng Tăng ở khắp mười phương. Chính trong ngày này, các vị Hiền thánh tăng hoặc tu thiền định, hoặc đắc bốn đạo quả, hoặc kinh hành dưới cây, hoặc những vị với Lục Thông tự tại giáo hóa Thanh VănDuyên Giác, hoặc các bậc Thập-Địa Bồ-tát phương tiện hiện tướng Tỳ-kheo giữa đại chúng. Tất cả đều quy tụ trong hàng chúng Tăng, đồng đẳng nhất tâm thọ bát cơm của ngày Tự Tứ. Vì giới pháp thanh tịnh đầy đủ, nên đạo đức của Tăng chúng sâu rộng mênh mông.  

Nếu có người dâng cúng chúng Tăng vào ngày Tự Tứ, thì tất cả cha mẹ, bà con quyến thuộc trong đời hiện tại đã quá vãng sẽ được siêu sinh trong ba đường khổ, liền được đầy đủ áo cơm. Nếu cha mẹ, lục thân  quyến thuộc còn sống thì được hưởng phước lạc sống lâu trăm tuổi, còn cha mẹ quá khứ bảy đời thì sinh lên cõi trời Tự tại, hóa sanh ở trong cõi trời hoa lệ chói sáng, hưởng vô lượng phước lạc.

Bấy giờ, Phật bảo chúng Tăng mười phương, trước tiên phải vì gia đình của thí chủchú nguyện cho cha mẹ bảy đời của họ. Phải nhiếp tâm định ý, rồi sau đó mới thọ thực. Lại nữa, khi vừa tiếp nhận khay cúng dường, trước hết hãy đặt ở trước tháp của Phật, tại nơi Tăng chúng hoặc ở trong chùa tháp cũng vậy, chúng Tăng đều phải chú nguyện trước, rồi sau đó mới thọ thực.” (hết trích).

 

B-2. TÌM HIỂU Ý NGHĨA ĐOẠN KINH NÀY:

- Tội chướng sâu dày:  Gốc rễ tội lỗi gây ra từ thân khẩu ý theo thời gian tội nghiệp nặng nề không kể xiết.

- Tà ma: Phạn ngữ là “mala” nghĩa phá hoại. Tà ma nghĩa là suy nghĩ theo tà kiến, đi theo con đường sai quấy.

- Ngoại đạo: Đạo khác với đạo Phật.

- Đạo sĩ: Là người tu đạo.

- Bốn thiên vương: Là bốn vị thần trấn giữ bốn cửa núi có tên là: Trì-Quốc Thiên vương ở phương Đông, Tăng-Trưởng Thiên vương ở phương Nam, Quảng- Mộc Thiên vương ở phương Tây và Đa-Văn Thiên vương ở phương Bắc.

Thập phương: Là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, trên, dưới …

- Chúng Tăng: Là những người tu hành, dụng công đoạn trừ phiền não liễu thoát sanh tử. Chúng tăng sống chung một tự viện từ bốn người trở lên được xem là đơn vị Tăng già. Tăng già phiên âm từ tiếng Phạn là sangha, là đòan thể những người xuất gia tu theo Chánh pháp, thanh tịnh, hòa hợp, đoàn kết. Hòa hợp bao gồm 6 loại gọi là Lục hòa. Lục hòa là chất keo gắn chặt lâu bền gữa Tăng chúng, là nền tảng vững chắc của tòan thể Tăng:

(1) Thân hòa đồng trụ: Về phần thân, sống trong chúng, lao động, tu hành, ăn mặc, ngủ nghỉ, tất cả đều hòa đồng như nhau.

(2) Khẩu hòa vô tranh:  Nói bàn, tranh luận học tập trong tinh thần hòa nhã, trọng đạo đức, không tranh cãi hơn thua, không dùng lời lẽ nặng nề tranh phần thắng bại.

(3) Ý hòa đồng duyệt: Tâm ý vui hoà, không chống trái, ngang ngạnh, thù hằn lẫn nhau.

(4) Kiến hòa đồng giải: Đóng góp mọi kiến giải sai biệt trong lúc hạ thủ công phu hay trong khi học giáo lý với tinh thần hài hòa, thông cảm, vui vẻ…

(5) Giới hòa đồng tu: Sách tấn nhau cùng giữ giới luật đã thọ nhận.

(6) Lợi hòa đồng huân:  Lợi dưỡng nếu có, đều được phân chia đồng đều, bình đẳng, không ai có quyền giữ riêng hay thọ hưởng nhiều hơn.

Chúng Tăng không chỉ sống hòa hợp trên “mặt sự” vừa kể mà còn phải hòa hợp trên “mặt lý”,  tức là đồng liễu thoát sanh tử, cùng chứng Niết-bàn. Sự hòa hợp cả sự lẫn lý như vậy, mới đúng nghĩa là đoàn người thanh tịnh sống hòa hợp và đoàn kết. Sau khi đức Phật diệt độ, mạng mạch Phật pháp nương vào Tăng truyền. Vì thế Tăng già được xem là một trong ba ngôi bảo cao quý.

- Lục thân:  Sáu thân gần gồm: Cha, mẹ, anh, em, vợ và con (phụ, mẫu, huynh, đệ, thê, tử)

- Quyến thuộc: Bà con họ hàng thân thuộc.

- Thanh văn: Đệ tử của đức Phật Thích Ca, tu theo giáo lý Tứ-diệu-đế, quả vị cao nhất là A-La-Hán.

- Duyên giác:  Là bậc tu theo giáo pháp Thập Nhị Nhân Duyên, phần nhiều tự tu, tự ngộ đến quả Duyên Giác.

          - Bồ-tát: Bồ-tát là danh hiệu dành cho các vị đã đắc quả Bồ-tát, và vẫn tiếp tục tình nguyện dấn thân vào hồng trần để cứu độ chúng sanh, bổ túc cho pháp tu và công hạnh của mình, trợ duyên cho Bồ-tát hoàn thành Phật quả.. Khái niệm Bồ-tát cũng dùng để chỉ cho bất cứ chúng sanh nào phát tâm tu hành đi theo con đường Chánh đẳng chánh giác.

-Thập địa Bồ-tát: Theo “Tự Điển Phật Học/Đạo Uyểngiải thích ý nghĩa của mười quả vị tu chứng của các vị Bồ-tát như sau:

(1) Hoan hỷ địa : Đắc quả này, Bồ-tát rất hoan hỷ trên con đường Giác ngộ (bodhi). Ngài phát Bồ-đề tâmthệ nguyện cứu độ tất cả chúng sinh thoát khỏi luân hồi, không còn nghĩ tới mình. Bố thí không cầu phúc. Chứng được tánh Vô ngã của tất cả các Pháp (dharma)

(2) Ly cấu địa: Bồ-tát giữ giớithực hiện thiền định.

(3) Phát quang địa: Bồ-tát chứng được quy luật Vô thường. Khi gặp chướng ngại trong việc cứu độ tất cả chúng sanh, các Ngài tu trì hạnh Nhẫn nhục.  Để đạt đến cấp này, Bồ-tát phải diệt trừ ba độc là tham, sân, si, thực hiện bốn cấp định an chỉ của bốn xứ và chứng đạt năm thành phần trong Lục Thông.

(4) Diệm huệ địa: Bồ-tát đốt hết tất cả những quan niệm sai lầm, tu tập trí huệ Bát nhã và 37 Bồ đề phần.

(5) Cực nan thắng địa: Bồ-tát nhập định, đạt trí huệ, nhờ đó liễu ngộ Tứ-diệu-đế và Chân như, tiêu diệt nghi ngờ và biết phân biệt. Bồ -tát tiếp tục hành trì 37 giác chi.

(6) Hiện tiền địa (Mặt hướng đến): Bồ-tát liễu ngộ mọi pháp là vô ngã, ngộ lý 12 nhân duyênchuyển hóa trí phân biệt thành trí Bát nhã, nhận thức tánh Không. Trong xứ này Bồ-tát đạt đến trí huệ Bồ-đề (bodhi) và có thể nhập Niết-bàn thường trụ. Vì lòng từ bi đối với chúng sanh, Bồ-tát lưu lại trong thế gian, nhưng không bị sinh tử ràng buộc, đó là Niết-bàn vô trụ.

(7) Viễn hành địa: Đạt tới cảnh giới này, Bồ-tát đầy đủ khả năng, có mọi phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Đây là giai đoạn mà Bồ-tát tùy ý xuất hiện trong bất kỳ dạng nào.

(8) Bất động địa: Trong giai đoạn này, không còn bất kỳ cảnh ngộ gì làm Bồ-tát dao động. Bồ-tát đã biết lúc nào mình đạt Phật quả.

(9) Thiện huệ địa: Trí huệ Bồ-tát viên mãn, đạt Mười lực, Lục Thông, Bốn tự tín, Tám giải thoát. Biết rõ cơ sở mọi giáo pháp và giảng dạy giáo pháp.

(10) Pháp vân địa (Mây lành của Pháp): Bồ-tát đạt Nhất-thiết trí, đại hạnh, Pháp thân của Bồ-tát đã đạt tới mức viên mãn. Ngài ngự trên tòa sen với vô số Bồ-tát chung quanh trong cung trời Đâu Suất. Phật quả của Ngài đã được chư Phật ấn chứng. Những vị Bồ-tát đạt cấp này là Di Lặc, Quán Thế ÂmVăn Thù.

 - Nội dung đoạn kinh này, đức Phật dạy phương pháp báo hiếu, đó là pháp Vu-Lan-Bồn.

Đức Phật dạy rằng một mình tôn giả Mục-Kiền-Liên không thể cứu độ được mẹ của ngài, các thần ma, đạo sĩ hay tứ đại thiên vương cũng không thể cứu, cần phải nhờ uy lực đạo đức tu tập của các chúng Tăng mười phương trong ba tháng an cư cùng chú nguyện mới có thể khiến cho mẹ ngài nương vào sức lực của chúng Tăng, nhổ được cội gốc tội lỗithoát khỏi cái khổ treo ngược.

Đức Phật nói thêm: “Nay ta chỉ dạy cho ông phương pháp cứu tế để cho tất cả những kẻ khổ nạn cùng được siêu thoát” nghĩa là pháp này nói ra không những chỉ giúp cho mẹ của tôn giả Mục-Kiền-Liên thoát khổ, mà khiến cho những người đang chìm đắm trong ba đường dữ đều có thể thoát ly khổ nạn.

Phật dạy rằng ngày Rằm tháng Bảy, Mục Kiền Liên nên sắm lễ phẩm tứ sự như cơm, thức ăn, trái cây, nước uống, giường chỏng, hương đèn  v.v… dâng cúng mười phương thánh Tăng cầu họ từ bi chú nguyện cho mẹ của tôn giả Mục-Kiền- Liên thoát khỏi gông cùm địa ngục. Phật cũng dạy chúng Tăng phải chú nguyện cho thí chủ trước khi thọ dụng lễ phẩm và thọ thực.

Tại sao thời gian lập đàn tràng chú nguyện là ngày Rằm tháng Bảy mà không phải là những ngày khác trong năm?

Ngày Rằm tháng Bảy là ngày Tăng Tự tứ. Theo giới luật thì từ ngày  Rằm tháng Tư đến ngày Rằm tháng Bảy, tức ba tháng này là thời giankiết hạ an cư” phải vân tập tại một chỗ dụng công tu học, cùng nhau thúc liễm thân tâm, trau giồi giới-định-huệ. Thời gian ba tháng viên mãn, đến ngày Rằm tháng Bảy là ngày giải hạ Tự tứ. Trong ngày này chúng Tăng cùng nhau kiểm thảo giúp đỡ lẫn nhau nhận ra những lỗi lầm phạm phải trong thời gian an cư kiết hạ. Nếu biết mình phạm giới, thì chủ động khai tội rồi sám hối. Nếu phạm giới mà không biết, thì tự nguyện thỉnh chư Tăng cử tội. Nếu thừa nhậnphạm giới thì trước mặt chúng Tăngnhư pháp sám hối”. Tự giác sám hối hay bị cử tội mà sám hối như thế rồi, thì được giới thể thanh tịnh, trở thành thanh tịnh Tăng.

Ngày Rằm tháng Bảy, tất cả Tăng chúng tu Thánh hạnh chứng chánh quả, có người trong núi tu thiền định, có người đắc được tứ quả do tu pháp Tứ Đế như sơ quả Tu Đà Hoàn, nhị quả Tư Đà Hàm, tam quả A-Na-Hàm, tứ quả A-La-Hán,

Lại có các vị dưới gốc cây đi kinh hành hoặc tham thiền, hoặc tu Chỉ Quán. Đây là nói tất cả Tăng chúng trong ba tháng “an cư kiết hạ” đều đang dụng công tu đạo.

Ngoài các bậc Thánh chúng trên, còn có các vị đã đắc được Lục thông nên vô ngại tự tại, có thể giúp đồng đạo, đệ tử cùng các hàng hậu tiến tu Tứ đế, Mười hai nhân duyên, nên nói giáo hóa Thanh văn Duyên giác.

Có Bồ-tát đã chứng đắc thập địa quả vị. Các Ngài ứng hiện Tỳ-kheo trong đại chúng hoằng dương chánh pháp giáo hóa chúng sanh.

Tất cả các bậc Thánh chúng trước ngày Rằm tháng Bảy, an cư khác nơi, khác chỗ. Hôm nay vân tập về một nơi cử hành pháp hộiVu-Lan-Bồn”. Các ngài thọ “Vu-Lan-Bồn” này đều là các bậc thanh tịnh Tăng, đạo cao đức trọng, đầy đủ tam học giới-định-huệ, đạo đức của các Ngài mênh mông như biển lớn, nên sức trì chú của các ngài có năng lực không thể nghĩ bàn, giúp chuyển đổi được tâm thức tham sân si của ngạ quỷ, khiến họ buông bỏ được dục vọng xan tham. Lòng tham sân si là nhà tù giam cầm chúng sanh ngạ quỷ, nay buông bỏ thì cửa địa ngục sẽ mở toang và họ thoát khỏi cảnh khổ.

Tôn giả Mục-Kiền-Liên y lời Phật dạy thiết lập trai đàn nhờ oai đức của chư Tăng giúp mẹ ngài chuyển hóa tâm thức, thoát kiếp ngạ quỷ sanh về cõi trời Tự Tại (Tha Hóa Tự Tại Thiên là tầng trời cao nhất trong 6 tầng trời cõi dục).

 

A-3. VĂN KINH (tiếp theo)

Khi ấy tôn giả Mục-Kiền-Liên cùng chư đại Bồ-tát ở trong Pháp hội này đều vui mừng vô cùng, và tiếng than khóc của Mục-Liên cũng chấm dứt. Chính vào ngày hôm đó, mẹ của Mục-Liên được thoát khổ trong loài ngạ quỷ.

Khi ấy ngài Mục-Kiền-Liên lại bạch:

“Bạch Thế Tôn! Thân mẫu của con đã được siêu thoát, đó là nhờ năng lực công đức Tam bảouy lực của Tăng chúng. Nếu đời vị lai, tất cả đệ tử đức Phật muốn hiếu thuận phụng dưỡng cha mẹ thì kinh Vu-Lan-Bồn này có thể cứu độ cha mẹ hiện tạicho đến cha mẹ trong bảy đời chăng?”

Đức Phật bảo:

“Lành thay! Điều mà Như Lai muốn nói, Tôn giả đã hỏi.

Này thiện nam tử! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, quốc vương, vương tử, đại thần, tể tướng, bách quan cùng cả thảy dân chúng, muốn thực hành đức từ hiếu, trước nên vì cha mẹ hiện tiền, kế đó cha mẹ bảy đời trong quá khứ, là cứ đến  Rằm tháng Bảy, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày chư Tăng Tự Tứ, nên sắp đặt đủ thứ các loại trái cây, thức ăn, nước uống vào bồn Vu-Lan để dâng cúng chư Tăngmười phương. Ngày chư Tăng Tự tứ cầu nguyện cha mẹ hiện còn, sống lâu trăm tuổi, không bệnh tật. Cha mẹ trong bảy đời quá khứ thoát khỏi khổ đau trong loài ngạ quỷ, được sinh trong cõi trời, hưởng phước lạc an vui.

Thiện nam, thiện nữđệ tử của đức Như Lai phải nên thực hành chữ hiếu, trong mỗi niệm thường thương tưởng đến cha mẹ hiện tại, cho đến cha mẹ bảy đời trong quá khứ. Hằng năm đến ngày Rằm tháng Bảy, đem lòng từ hiếu thương tưởng song thân hiện tiền, cha mẹ bảy đời quá khứ, sắm sửa bồn Vu-Lan, hiến cúng Phật-đà, dâng cúng chúng Tăng để đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Nếu là đệ tử của đức Phật thì phải tuân giữ những điều trên đây.

Lúc ấy, Tôn giả Mục-Kiền-Liên cùng với bốn chúng đệ tử nghe Phật giảng dạy, đều rất hoan hỷ tín thọ phụng hành (hết trích)

 

B-3. Ý NGHĨA ĐOẠN KINH CUỐI

          - Báo hiếutrách nhiệm của tất cả những người làm con

Sau khi mẹ được cứu thoát khỏi kiếp ngạ quỷ, tôn giả Mục-Kiền-Liên vô cùng hoan hỷ, ngài trình hỏi đức Phật sau này các Phật tử có thể cứu thoát cha mẹ hiện tại và bảy đời quá khứ qua việc cúng dường Vu-Lan-Bồn như ngài đã làm hay không?

Nhân dịp này, đức Phật đã khuyên tất cả những người con nên học theo gương hiếu hạnh của ngài Mục-Kiền-Liên cứ đến ngày Rằm tháng Bảy là ngày chư Tăng tự tứ, là ngày Phật hoan hỷ, nên chí thành cúng dường mười phương Tăng để cho cha mẹ hiền tiền được phước thọ tăng thêm, không bệnh không khổ, cha mẹ bảy đời quá khứ thoát khổ cảnh ngạ quỷ được sinh trong cõi trời, cõi người an vui.

          Cũng trong dịp này, đức Phật nhắc nhở bất luận là người tu sĩ xuất gia hay hay cư sĩ tại gia. Tất cả mọi người con, dù là ai trong xã hội, là vua chúa, quan quân hay người thường dân, người phú quý hay kẻ bần hàn, ai ai cũng đều do cha mẹ sanh ra, cho nên đối với cha mẹ phải luôn hiếu thuận trong từng phút, từng giây, từng niệm suy nghĩ, chứ không phải chờ đến ngày Lễ Vu Lan mới lo báo hiếu.

          Tóm lại báo hiếutrách nhiệm của tất cả mọi người con.

          Sau khi nghe lời khuyến khích dặn dò phó chúc của đức Phật, tôn giả Mục -Kiền-Liên và tứ chúng đệ tử của đức Phật tức nam nữ tu sĩnam nữ cư sĩ nghe lời dạy bảo của đức Phật đều rất hoan hỷ, y pháp thực hành báo đáp ân đức cha mẹ.

 

III. CHÚNG TA HỌC ĐƯỢC GÌ NƠI “BÀI KINH VU-LAN-BỒN”?

- Bài học về Nhân Quả: Mỗi người tự làm chủ cuộc đời của mình. Nghiệp lành nghiệp ác tự mình tạo ra thì sớm hay muộn gì mình cũng thọ nhận hậu quả. Hình ảnh địa ngục, hay ngạ quỷ phản ảnh nhận thứchành vi độc ác, xấu xa, keo kiệttham lam của mình. Mình gieo ác thì gặp ác, không ai cứu nổi mình. Biết như thế, là Phật tử phải giữ tròn giới hạnh sống đạo đức, luôn nhớ làm lành, tránh dữ… thì ngay trong cuộc sống hiện tại của mình được an vui hạnh phúc, không chờ đến chết bị đọa địa ngục hay ngạ quỷ chịu khổ như bà Thanh Đề mẹ của tôn giả Mục-Kiền-Liên.

-Không dựa vào tha lực: Trong Kinh Vu-Lan có đề cập đến các thiên thần địa thần, tứ đại thiên vương v.v… cũng không thể cứu giúp được cho thân mẫu của tôn giả Mục-Kiền-Liên. Riêng tôn giả Mục-Kiền-Liên là vị Thánh Tăng đắc quả A-La-Hán thành tựu Lục Thông, vậy mà khi dâng bát cơm cho mẹ, mẹ Ngài cũng không thể ăn được, vì cơm đã hóa thành than hồng. Sự kiện này cho thấy chúng ta không thể dựa vào tha lực, dù tha lực đó có thần thông biến hóa khôn lường cũng không cứu được chúng ta ra khỏi địa ngục.

- Bài học về đoàn kết: Một cá nhân dù tài giỏi, một mình khó hoàn thành được việc lớn. Nhiều người góp sức thì việc gì khó cũng có thể làm được. Tục ngữ có câu: “Một cây làm chẳng nên non. Ba cây dụm lại nên hòn núi cao”. Một mình tôn giả Mục-Kiền-Liên dù đắc quả A-La-Hán thành tựu Lục thông cũng không cứu được mẹ. Phải nhờ đến mười phương Tăng họp sức chú nguyện mới cứu được bà Thanh Đề.

- Bài học về đạo hiếu thảo: Nhân vật chính báo hiếu trong Kinh Vu-Lan-Bồn là ngài Mục-Kiền-Liên, vị đệ tử lỗi lạc thần thông số một của đức Phật.

Trong bài kinh khác là “Kinh Báo Ân”, đức Phật Thích Ca đã thể hiện lòng hiếu thảo của ngài qua sự kiện bản thân ngài đã thành kính đảnh lễ đống xương khô, trong đó có cửu huyền thất tổ của ngài.

Đức Phật và chư thánh nhân không quên công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ trong đời này và nhiều đời trước. Các Ngài đã tìm cách báo đáp, còn chúng tađệ tử của Phật làm sao dám quên công ơn cha mẹ không lo sớm hôm báo đền. Báo hiếu cha mẹ không phải chờ đến ngày Rằm tháng Bảy mới báo hiếu, Phật dạy làm con phải hiếu thuận với cha mẹ từng phút từng giây, mỗi niệm suy nghĩ phải thương tưởng đến cha mẹ. Cha mẹ còn sống phải chăm lo săn sóc cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Về vật chất lo đầy đủ miếng ăn, giấc ngủ, giường nệm ấm êm, quần áo sạch sẽ. Về tinh thần thì khuyến khích cha mẹ lo tu hành theo chánh pháp tạo nghiệp lành tránh nghiệp ác, chứ không chờ cha mẹ qua đời rồi tổ chức cúng giỗ rềnh rang, hay đến ngày Lễ Vu Lan hằng năm mới theo người ta đến chùa tham dự pháp hội  báo hiếu.


IV. KẾT LUẬN

Tóm lại, nội dung kinh “Vu-Lan-Bồn hay “Phật Thuyết Vu-Lan-Bồn kinh đề cao đạo đức chữ hiếu. Ngoài việc hướng dẫn phương pháp độ tử, bài kinh còn ngầm nhắc nhở chúng sanh ngay trong đời sống hiện tại cần giữ ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, làm việc thiện lành tránh việc xấu ác. Kinh khuyến khích các hình thức tôn kínhphụng sự Tam Bảo, trong ý nghĩa gắn liền sự sinh hoạt của Phật tử đối với đạo pháp, đồng thời phản ảnh thái độ tôn kính chân lý Phật dạy và đạo đức của chư tôn đức tăng ni là những vị đã dày công tu tập, đang hoằng truyền pháp Phật vì lợi ích của số đông chư thiênloài người.

Với một thông điệp gồm những nội dung giá trị như vậy, kinh Vu-Lan Báo-Hiếu và Lễ-Hội Báo-Hiếu tổ chức hằng năm vào ngày Rằm tháng Bảy là một truyền thống tốt đẹp, nó có giá trị hai mặt về nhân văn và văn hóa, không chỉ trong cộng đồng Phật giáo, mà cho tất cả mọi người trên quả địa cầu này. Thử hỏi trên đời, có người nào không do cha mẹ sanh ra và có ai sanh ra mà không chết?  Giữa sanh ra và chết đi là khoảng thời gian của một đời sống. Là người hiểu đạo, chúng ta sống sao cho xứng đáng một kiếp người, để khi thân hoại mạng chung, chúng ta bình thản ra đi không một chút hối hận hay hối tiếc một điều gì…

Bài kinhPhật thuyết Vu-Lan-Bồn” là một trong những bài kinh ngắn dễ hiểu, là một thông điệp giá trị nhắc nhở chúng ta đạo làm người, trong đó đạo hiếu với cha mẹ là nền tảng đạo đức quan trọng mà bổn phận người làm con không được phép quên.

 

Nam Mô Đại Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát

 Thích Nữ Hằng Như

                                                                                                        15-8-2021

                                                                            (Sinh hoạt với đạo tràng Thiền Tánh Không Texas) 

    

 

 

 

                                          PHẦN THẢO LUẬN

 

Qua bài kinh này chúng ta rút ra rất nhiều bài học. Trước hết là bài học về Nhân Quả.  Mình áp dụng bài học Nhân quả vào đời sống của mình ra sao?

Nhân là những gì do mình gây ra? Mà gây ra bằng cách nào? Nhân gây ra từ Nhận thứchành vi của mình. Nhận thức tức là ý, là tâm. Hành vi là hành động và lời nói. Gom chung tức là thân, khẩu, ý. Tâm nghĩ tốt thì tạo chủng tử tốt từ trong ý. Nếu tâm dừng lại thì minh mối tạo nghiệp ý thôi. Còn như tâm phát ra tín hiệu tọt hay xấu rồi minh buông lời nói hay hay đổng tốt hay xấu thì minh đã tạo nghiệp tốt hay nghiệp xấu rồi. Đây chính là nhân. Khi nhân chín muồi thuận duyên nó sẽ trổ thành quả.  Quà tốt hay quả xấu là do từ Nhân tốt hay xấu. Theo trong kinh thì bà Thanh Đề thân mẫu của tôn giả Mục Kiền Liên lúc còn đã sống tạo nhiều nghiệp ác, đến  khi thân hoại mạng chung bị đọa vào kiếp quỷ đói rất khổ sở. Đây là nghiệp báo. Gây nghiệp nào thì nhận nghiệp báo đó. Báo đây là báo đáp, báo trả.

Tu thành thánh, thành Phật, nhiều khi mình thấy quá xa vời. Để tránh trường hợp như bà Thanh Đề khi chết bị đọa vào kiếp ngạ quỷ thì sống ở thế gian này minh tu tập bốt tham sân si đề từ tử đoạn diệt ba độc này đi đến giải thoát giác ngộ.

Bài học gần gủi nhất mà đức Phật dạy mình là: “Làm những việc lành, tránh các việc ác. Giữ tâm ý trong sạch. Đó là lời Phật dạy.”

- Bước đầu đối với bản thân của mình: Cố gắng giữ cho lời nói hành động của mình không gây phiền lụy cho người khác, tâm ý mình không nghĩ xấu cho người khác. Như vậy mình không gây nghiệp xấu, vì giữ được ba nghiệp thanh tịnh, Cái quả của ba nghiệp thanh tịnh là an vui, hạnh phúc.

- Bước kế đối với tha nhân: Làm tất cả những việc thiện lành, tránh làm những việc xấu ác. Cho dù những việc này rất nhỏ. Trong 37 phẩm trợ đạo đưa đến thoát khổ giải thoát, Phật có dạy pháp Tứ chánh cần. Đó là (1) Hãy làm việc thiện. (2) Đã làm việc thiện rồi tinh tấn phát huy thêm. (3) Không làm việc ác dù nhỏ. (4) Nếu lỡ phạm việc ác phải lập tức chấm dứt và không bao giờ tái phạm.

Đây là bài học tập sống “ly dục, ly bất thiện pháp”, chỉ cần “ly dục ly bất thiện pháp” tức lìa xa những pháp ác (tùy miên, kiết sử, lậu hoặc là những chất ô nhiễm tâm)  là hành giả có được hỷ lạc trong tầng Thiền thứ nhất là Sơ thiền.

 

Tóm lại, bài kinh này tôn vinh lòng hiếu thảo, nhắc nhở mọi người con trên thế gian này chớ quên công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ. Người nào sống hiếu thảo với bậc sanh thành, người đó sống đạo đức. Cái phước của người sống đạo đức xuất hiện ngay trong thời hiện tại là mình cảm thấy hạnh phúc, sung sướng khi được ở bên cạnh chăm sóc cho cha mẹ. Những quả báu tốt đẹp khác đến hay chưa đến trong đời này không phải là mối quan tâm của họ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13 Tháng Tám 20224:40 CH(Xem: 1978)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra. Muốn thoát khổ thì cũng phải chính mình tháo gỡ sợi dây ràng buộc đó chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình được.
10 Tháng Tám 20227:09 SA(Xem: 2549)
Sự thật muôn đời: hễ cái gì có sinh ra, thì phải có lúc chấm dứt, biến mất, hoại diệt. Nhưng dường như chúng ta chưa chấp nhận sự thật này. Nên chúng ta buồn khổ vì bệnh. Các bạn ơi, như vậy bệnh có phải chỉ là ảo giác ngôn ngữ?
06 Tháng Tám 20229:52 SA(Xem: 2184)
84 K Dharma approaches mean there is none of them. How come? Any way is the entrance to the house that has been there and for each of us. We are inside our home and always at home. But we do not trust this truth. Then, we manage to look for this and that everywhere. Do live ingenuously, and very naturally. Do not add anything. With that, we are at home and inside our house.
01 Tháng Tám 20225:11 CH(Xem: 1900)
Nói theo luận lý Huyễn: không phải khách quan dính mắc thế gian, mà dính mắc thế gian chính là chủ quan.
27 Tháng Bảy 202211:15 SA(Xem: 2830)
Các em có lần tâm tình: cô ơi, trước khi cô nghỉ ngơi, cô hệ thống lại con đường từ đầu tới cuối cho tụi con theo đó mà đi. Thiệt ra có con đường nào đâu. Tu là thấy ra cái tâm của chính mình thôi. Chính mình đang ở trong cái tâm của mình. Con đường nào khác nữa? Là đã phóng ra ngoài, tìm cầu cái gì bên ngoài là đi lạc rồi.
27 Tháng Bảy 20226:49 SA(Xem: 1924)
Nếu nắm vững một trong ba cách “Như Thực - Yathābhūta” ta có khả năng mở ra những mấu chốt trong phương pháp tu Huệ của hệ Phát Triển và Thiền Tông.
26 Tháng Bảy 202210:53 CH(Xem: 2053)
Tùy theo căn cơ của chúng sanh mà Đức Phật có nhiều phương thức, nhiều pháp môn hướng dẫn đệ tử tu tập để đạt quả vị giải thoát tối hậu, nhưng với pháp môn nào người tu tập cũng phải thực hành nhuần nhuyễn Tam Vô Lậu Học: Giới-Định-Tuệ. Vì Tam Vô Lậu Học có công năng đưa hành giả qua bờ giác ngộ thoát khỏi vòng tục lụy luân hồi sinh tử./.
20 Tháng Bảy 20225:14 CH(Xem: 2554)
Làm sao sống hài hòa với thế gian? Các bạn ơi, đâu có gì bí hiểm. Thấy “cái đang là”. Đó, cái đáp án, đơn giản quá, mà sao áp dụng khó quá phải không? Chỉ cần biết “cái đang là” thôi là tâm trong sáng tức khắc. Khi ta nghĩ tới “cái phải là”, lập tức ta rơi vào biển khổ cuộc đời, ta bị trói buộc, hay ta đang trói buộc người khác.
18 Tháng Bảy 20225:13 CH(Xem: 2281)
Tổ đã mở màn một kỷ nguyên mới về Thiền bằng bốn câu kệ bất hủ: Bất lập văn tự; Giáo ngoại biệt truyền; Trực chỉ nhơn tâm; Kiến tánh thành Phật. (Xem Giải thích thuật ngữ ở cuối bài)*
14 Tháng Bảy 20228:13 SA(Xem: 2474)
84 ngàn pháp môn có nghĩa là không có pháp môn. Vì sao vậy? Đi cách nào cũng vào nhà, vì nhà là sẵn có, là của riêng mình. Ta đang ở trong nhà, luôn luôn đang ở trong nhà. Chỉ là mình không tin sự thật này, nên mình bôn ba tìm kiếm đâu đâu. Hãy sống hồn nhiên, thật tự nhiên, không cần thêm gì hết, là mình đang ở trong nhà của mình.
13 Tháng Bảy 20225:37 CH(Xem: 1949)
Người tu Phước vô lậu và Phước hữu lậu đều có những hành vi thiện lành giống nhau, nhưng tâm tư của mỗi hành giả lúc thực hiện thì khác nhau. Cùng một hành động, mà một đằng hướng đến tái sinh hưởng phước hữu lậu vật chất ở tương lai. Một đằng là công đức tu hành, làm lợi ích chúng sanh bằng tâm quảng đại. Khi cần thì làm. Làm xong thì thôi, không dính mắc gì cả.
09 Tháng Bảy 20225:48 SA(Xem: 1822)
Chân như là tướng chân thực hay chân tướng bất biến của mọi hiện tượng. Nó là nguyên tắc làm cho hiện tượng giới ở trong trạng thái như như bất động. Chỉ bằng trí huệ Bát nhã mới hình dung được ý nghĩa chân như như thế nào.
05 Tháng Bảy 20226:00 SA(Xem: 1690)
Nói theo luận lý Huyễn: không phải khách quan dính mắc thế gian, mà dính mắc thế gian chính là chủ quan. Nhưng khi đạt được sự lãnh hội hiện tượng thế gian là Như Huyễn, tâm ba thời không còn hiện hữu. Chủ quan và khách quan vắng mặt. Đây là trạng thái của trí huệ Bát Nhã.
29 Tháng Sáu 202212:30 CH(Xem: 2919)
Tất cả các vị thánh tăng đều có Giới đức, Định lực và Tuệ lực tròn đầy. Nhưng những phương tiện đầu tiên có hơi khác nhau: ngài A nan thì bước vào bằng ngõ đa văn, ngài Revata thì hạnh sống nơi rừng núi hoang vắng, ngài Anuruddha thì bằng thiên nhãn, ngài Mahā Kassapa thì hạnh đầu đà, ngài Mahā Moggallāna thì trí tuệ biện tài, ngài Sāriputta thì điều phục tâm v.v...Mỗi người mỗi vẽ, quy tụ lại như một vườn hoa có trăm đóa khác nhau, hoa nào cũng tròn hương, tròn sắc.
22 Tháng Sáu 20221:22 CH(Xem: 3144)
Hôm nay học lại gương sáng của người xưa, gương sáng vẫn muôn đời là gương sáng. Ánh sáng chỉ sáng cho những ai nhìn thấy. Ánh sáng của trí tuệ muôn đời vẫn thầm lặng chiếu soi trần gian, như ánh trăng kia thầm lặng sáng trong đêm dài cuộc đời.
19 Tháng Sáu 202211:17 SA(Xem: 2035)
Tánh Không (Śūnyatā) được gọi là bất khả đắc (không thể được: anupalabdha) hay bất khả tư (acintya: không thể suy nghĩ). Nó không phải là một khái niệm thông thường như trong bất cứ phạm trù nào của luận lý học trong triết học. Nó đồng nghĩa với Chân Như. Vì thế muốn giáp mặt nó, người thực hành phải kinh nghiệm nhận thức không lời.
15 Tháng Sáu 20227:25 SA(Xem: 2332)
Ý NGHĨA CỦA PHÓNG SANH - Sinh hoạt đạo trảng Houston - 5- 6- 2022
14 Tháng Sáu 20225:56 CH(Xem: 2995)
Ngài Anuruddha, đã gieo căn lành từ nhiều đời trong quá khứ, đời này sinh ra trong gia đình, dòng họ giàu sang, lại cùng thời với đức Phật, anh em chú bác với đức Phật, xuất gia rất sớm, không vướng bận vợ con, đầy đủ thuận duyên, trở thành một vị thánh đệ tử, quan sát cả ngàn thế giới mà chỉ như người đứng trên lầu cao nhìn xuống thế gian.
14 Tháng Sáu 20225:26 CH(Xem: 2410)
Ni sư Triệt Như Audio: KHÁI QUÁT VỀ THỂ NHẬP TÁNH KHÔNG AUDIO khóa BN Trung Cấp III 4-6-2022
13 Tháng Sáu 20229:46 SA(Xem: 1718)
... Đức Phật: “Chỉ qua thể tánh của chúng chứ các pháp đó không là cái gì cả. Tánh của chúng là không tánh (no-nature), và không tánh của chúng là tánh của chúng. Vì chư pháp chỉ có một tướng mà thôi, đó là không tướng. Vì lý do này chư pháp có đặc tính của không được biết đầy đủ bởi Như Lai. Vì pháp không có hai tánh, chỉ có một. Một là tánh của chư pháp. Và tánh của chư pháp là không tánh, và không tánh của chư pháp là tánh của chúng. Như thế, tất cả điểm dính mắc đó đều bị buông thả."
07 Tháng Sáu 202210:23 SA(Xem: 2518)
Người biết sống một mình là người luôn an trú trong chánh niệm. Tuy nhiên đối với đa số con người, xa lánh nơi ồn ào náo nhiệt là duyên thuận lợi hơn trong bước đầu tu tập.
05 Tháng Sáu 20225:21 CH(Xem: 1752)
Khi mạng lưới khái niệm càng được dệt, tâm linh hay chân tâm càng bị “chôn dấu”. Tiến trình tâm linh hay Phật tánh chỉ có thể phát sáng khi khái niệm hóa bị chấm dứt. Người nhiều vô minh thì thích tạo ra những mạng lưới khái niệm hóa dày đặc. Vì thế họ càng xa niết bàn, càng xa giác ngộ. Trái lại, họ gần phiền não và đau khổ.
04 Tháng Sáu 202211:21 SA(Xem: 4592)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
02 Tháng Sáu 20221:11 CH(Xem: 2061)
Đạo lộ tâm linh đi đến giải thoát giác ngộ, căn bản đầu tiên là phải tu tập từ các căn. Tu tập như thế nào Đức Thế Tôn đã từ bi chỉ rõ trong bài “Kinh Căn Tu Tập”.
01 Tháng Sáu 20226:59 CH(Xem: 2692)
Các bạn ơi, đây là một tấm gương sáng, một con đường tu học mà ngài A Nan gởi gắm lại cho đời. Con đường của trí tuệ, cũng dẫn hành giả tới giải thoát.
27 Tháng Năm 202212:03 CH(Xem: 2477)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
24 Tháng Năm 202212:23 CH(Xem: 2680)
Chợt tỉnh giấc nửa đêm, nhìn ra khung cửa sổ, trời sáng, trắng trong, mặt trăng tròn treo lơ lửng giữa trời không mây. Hôm nay là một đêm trăng mùa Phật đản sinh. Khép mắt lại, nhìn thấy một bức tranh thiệt đẹp giữa rừng, giữa một cảnh rừng, trong một đêm trăng sáng, cũng một đêm trăng tròn sáng như đêm nay
17 Tháng Năm 20221:38 CH(Xem: 2905)
Nhưng có một cái không xa rời mình, đó là cái tâm, tâm đời thì tái sanh để tiếp tục lặn hụp trong biển ái, biển khổ; nếu là tâm trong sạch thì tiếp tục tu học cho tới khi hoàn hảo là bước lên bờ. Bấy giờ trên bến bờ bình an, thấy ai giơ tay vẫy gọi, ta mới tới cầm tay dắt lên bờ. Còn những ai mải mê đắm đuối trong sóng nhấp nhô, thì ta có làm gì hơn nữa được đâu, phải không các bạn ơi!
11 Tháng Năm 20222:50 CH(Xem: 2786)
Pháp môn là cái cổng để đi vào học, hiểu và thực hành Pháp. Pháp là chân lý, cũng là tất cả hiện tượng thế gian. Nói như vậy, chúng ta có thể tưởng là hai thứ khác nhau. Không, chúng chỉ là một. Chân lý hiển lộ ra qua mỗi hiện tượng thế gian, mỗi hiện tượng thế gian chính là chân lý. Ta cũng là chân lý, chân lý cũng hiển lộ qua ta. Ta cũng là tất cả chân lý. Tất cả đều bình đẳng: đều vô thường, đều vô ngã, đều duyên sinh, đều trống rỗng, đều như huyễn, đều như như bất động. Tất cả đều là cái vô sanh, nên bất tử.
10 Tháng Năm 20223:33 CH(Xem: 2941)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
04 Tháng Năm 202212:31 CH(Xem: 2901)
Đức Phật nói nước mắt con người chảy thành biển cả mênh mông, còn tiếng cười của hai anh em mình chỉ đong đầy có hai cái lu thôi. Nước mưa thì vẫn trong vẫn mát. Mùa xuân cũng vẫn mát vẫn trong, muôn đời.
03 Tháng Năm 20229:22 CH(Xem: 2486)
This article is an introductory summary of the teachings of Zen Master Thích Thông Triệt on the topic, mainly based on the oral teaching of Bhikkhuni Zen Master Thích Nữ Triệt Như given for the Fundamental Meditation Course.
27 Tháng Tư 20223:46 CH(Xem: 2969)
“Cô nghĩ sao về cái Chết?”. - Chợt nghĩ tới mình, bước đường đời đã tới mức cuối, rồi nghĩ tới các bạn. Cái cầu mình sẽ phải đi qua, vậy mình chuẩn bị hành trang nào, sẵn sàng bước tới mấy nhịp cầu “đoạn trường” đó?
27 Tháng Tư 202210:24 SA(Xem: 2329)
Ni sư Triệt Như VIDEO Giảng Đại Chúng Bài 7: CHỖ ĐỨNG và MỤC TIÊU CỦA CHÚNG TA Giảng tại Thiền Đường Tánh Không Nam Cali ngày 16 tháng 4, 2022
20 Tháng Tư 202210:17 SA(Xem: 3444)
Cho nên tham sân si cũng biểu hiện tất cả những chân lý thường hằng của vạn pháp. Chúng là vô thường, là khổ, là vô ngã, bản thể trống không, như huyễn mộng, là như như bất động, là bình đẳng với vạn pháp.
19 Tháng Tư 20227:50 CH(Xem: 2813)
Ni sư Triệt Như Audio: 8- CHỦ ĐỀ CỦA CÁC KHÓA THIỀN Thiền Đường Tánh Không Nam Cali 16- 4- 2022
19 Tháng Tư 20225:00 CH(Xem: 2400)
Bhikkhuni Triệt Như - Sharing from the Heart 97 - THE PATH OF THE AWAKENED PERSON - Translated into English by NHƯ LƯU - Narrated by PHƯƠNG QUẾ
19 Tháng Tư 20224:46 CH(Xem: 2617)
Ni sư Triệt Như Audio: 7- CHỖ ĐỨNG VÀ MỤC TIÊU CỦA CHÚNG TA Thiền Đường Tánh Không Nam Cali 16- 4- 20
18 Tháng Tư 202211:18 SA(Xem: 2314)
Thế nào là chơi trò chơi cút-bắt với vọng? - Ai khởi vọng ?- Vọng khởi ra như thế nào ?- Động cơ nào thúc đẩy vọng khởi ? - Tại sao chư Tổ nói vọng tưởng là "giả, không thật," còn chúng ta cho rằng vọng là "thật ?"- Tại sao tu thiền phải kiểm soát vọng tưởng ?- Làm thế nào để không theo vọng tưởng ?
18 Tháng Tư 202211:05 SA(Xem: 2530)
Enlightenment! How happy I am this late night! “Back to Sorrento” now in my good command.
69,256