HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Triệt Như SNHP030: HAI DÒNG TRUYỀN THỪA

13 Tháng Mười 20211:17 CH(Xem: 3838)

Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - Bài 30

HAI DÒNG TRUYỀN THỪA

30 SUOI NGUON HANH PHUC 4 X 6 VN
Bài viết này tạm giới hạn trong khoảng thời gian sau khi Đức Phật nhập diệt 100 năm kéo dài tới khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên, tạm xem như thời kỳ phân liệt bộ phái của Phật giáo, hay là những nhân duyên dẫn tới sự hình thành hai dòng truyền thừa lớn của Phật giáo: Đại thừaTiểu thừa. Bài viết này không phải là bài khảo cứu hay bình luận về các sử liệu Phật giáo. Đây chỉ là nhắc lại những sự kiện tổng quát của dòng vận hành các pháp trong nguyên lý tương quan nhân quả đưa tới ngả rẽ của hai dòng truyền thừa: Đại thừaTiểu thừa. Và đây cũng chỉ là vài hiểu biết thô sơ không sao tránh được khuyết điểm chủ quan của một người hậu học, mạo muội trình bày về một sự kiện thực tế, kéo dài có thể là gần 2000 năm qua, danh xưng Đại thừa / Mahāyāna và Tiểu thừa / Hīnayāna. Mặc dù đã biết trong kỳ đại hội Phật giáo quốc tế 1954-1956 tổ chức tại Miến điện, đại hội đã đồng thanh quyết định từ đây, Tiểu thừa có danh xưng là hệ Theravāda, Đại thừa có danh xưng Hệ Phát triển, tuy nhiên xin vẫn dùng hai từ Tiểu thừaĐại thừa để thích hợp phần nào với hoàn cảnh lịch sử Phật giáo thời đó.

Trước nhất chúng ta liếc nhìn lại diễn tiến lịch sử Phật giáo từ sau khi Đức Phật nhập diệt để dẫn tới sự hình thành hai nhánh Đại thừaTiểu thừa.

Kết tập kinh điển lần thứ I

Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng ba tháng, ngài Mahā Kassapa đã đứng ra triệu tập đại hội 500 vị đại đệ tử A la hán của đức Phật, bằng cách đọc tụng lại hai tạng: Kinh và Luật. Đó là vào khoảng năm 483 BCE.

Kỳ kết tập kinh điển lần thứ II.

Khoảng 100 năm sau, tức là 383 BCE, ngài Yasa triệu tập 700 vị Trưởng lão đọc tụng lại hai tạng Kinh và Luật, với mục tiêu chấn chỉnh Giới luật vì có Thập sự phi pháp của nhóm tăng sĩ trẻ Vajji. Tiếp theo giáo đoàn thống nhất của đức Phật bắt đầu phân ra hai bộ phái:

-       Theravāda / The doctrine of the elders/ Thượng tọa bộ hay Trưởng lão bộ, chủ trương bảo thủ.

-       Mahāsāmghika / The Great Assembly / Đại chúng bộ: chủ trương cấp tiến.

Đồng thời, Đại chúng bộ cũng triệu tập đại hội, gồm 10.000 tu sĩ nam nữcư sĩ nam nữ, kết tập Kinh và Luật theo quan điểm của mình. Nhưng sử liệu không ghi nhận về kỳ kết tập này.

Từ đấy, theo dòng thời gian, Đại chúng bộ lần lượt phân tách ra thêm 8 bộ phái khác vì có những điểm bất đồng với nhau trong việc giải thích Kinh và Luật.

Trưởng lão bộ cũng phân tách ra lần lượt thêm 10 bộ phái khác.

Trong thời kỳ này, các bộ phái thi nhau sáng tác các bộ Luận thư, giải thích Kinh và Luật, đồng thời trình bày chủ trương và đường lối tu tập của mình. Đây là thời kỳ phân liệt bộ phái Phật giáo. Các bộ Luận thư do các nhà Luận sư nổi tiếng viết ra, phân tích chi ly về Kinh và Luật, sau này trở thành gia tài phong phú của Phật học.

Kỳ kết tập kinh điển lần III

Khoảng năm 250 BCE, do vua Aśoka bảo trợ. Kỳ này đại hội gồm 1000 vị thánh tăng thông thuộc tam tạng kinh điển. Chủ trì là ngài Mục kiền Liên tu đế / Moggaliputta Tissa, thuộc Trưởng Lão bộ.

 Kết quả:

1)    Đại hội thành lập Tam Tạng kinh điển, ghi thành văn bản Pāli, gồm:

+ Kinh tạng: 5 Bộ (Nikāya: bộ) gồm: Trường bộ, Trung bộ, Tiểu bộ, Tăng chi bộ, Tương Ưng bộ.

+ Luật tạng: 5 bộ

+ Luận tạng: 7 bộ Luận thư / Abhidhamma, do các vị Tổ sáng tác.

2)    Vua Aśoka phái:

+  9 đoàn sứ giả đi truyền bá Phật giáo khắp nước Ấn Đô ̣và ngoài Ấn Độ.

Trong 9 đoàn sứ giả này, có 1 đoàn do ngài Đại Thiên cầm đầu, và 1 đoàn do thái tử Mahinda cầm đầu.

  • Ngài Mahādeva / Đại Thiên chủ trương:

+ Tu sĩ tinh thông Tam Tạng kinh điển, giỏi thuyết pháp, có thể viết Kinh.

+ Xét lại phẩm chất của vị A La Hán.

 Nhưng nhóm Tu sĩ bảo thủ không đồng ý cả 2 quan điểm này.

Sau đó, nhóm tu sĩ trẻ cấp tiến theo ngài Mahādeva về miền Āndhara, nam Ấn.

Hệ thống kinh Bát nhã Ba la mật về sau được xếp là quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa, đã được xem như xuất phát từ miền nam Ấn, các vị Tổ sáng tác kéo dài mấy trăm năm, trong đó có kinh Kim Cang và kinh cuối cùngBát Nhã Tâm kinh.

  •  Thái Tử Mahinda xuất gia với ngài Mahādeva, sang Sri Lanka truyền bá Tam Tạng bằng tiếng Pāli. Ngài Mahinda về sau được Đảo sử (Sử của Sri- Lanka)  xếp là Tổ thứ V sau ngài Moggaliputta Tissa là Tổ Thứ IV.

 Từ đó bắt đầu hình thành sơ khai 2 hệ :

-       Nam tông (do ngài Mahinda khởi phát từ Sri- Lanka)

-       Bắc tông (có thể từ ngài Mahādeva/ thầy của ngài Mahinda, khởi phát ra hệ thống kinh Ma ha Bát nhã ba la mật đa sau này).

Kỳ kết tập kinh điển lần IV

Khoảng đầu thế kỷ II CE, do vua Kaniṣka (127- 150) bảo trợ.

Thành phần: 500 thánh tăng đại diện 18 bộ phái. Chủ trì: Nhất Thiết Hữu Bộ. Đây là một bộ phái đã tách ra sớm nhất từ hệ Theravāda. Bấy giờ Nhất thiết hữu bộ lần lần trở nên hưng thịnh hơn hệ Theravāda, nên vua Kaniṣka đã mời ngài Thế Hữu chủ trì. Ngài Thế Hữu là một Luận sư nổi tiếng thuộc Nhất thiết Hữu bộ. Vua Kaniṣka mời ngài Mã Minh, cũng là một Luận sư danh tiếng, nhuận sắc văn chương cho Tam Tạng chuyển sang văn bản Sanskrit.

Kết quả:

1)    Đại hội kết tập Tam tạng viết thành văn bản Sanskrit, gồm:

- Kinh tạng Āgama (A hàm) gồm 5 bộ (100.000 bài tụng): Trường A hàm, Trung A hàm, Tiểu A hàm, Tăng nhất A hàm, Tạp A hàm.

Nội dung tương tự Kinh Tạng Pāli.

- Luật tạng: gồm 5 bộ (100.000 bài tụng), nội dung tương tự Luật tạng Pāli.

- Luận thư / Abhidharma: gồm 7 bộ (100.000 bài tụng) hoàn toàn khác với 7 bộ Abhidhamma trước.

2) Tam Tạng được khắc vào bảng đồng, 12 năm sau mới hoàn thành, gìn giữ trong bảo tháp. Nhưng sau những thăng trầm lịch sử, hiện nay không còn. Từ đây, Tam Tạng Sanskrit được truyền bá ra phía bắc ngoài Ấn Độ (có thể vì kỳ kết tập này tổ chức ở Kashmir, bắc Ấn).

3) Phật Giáo được truyền bá khắp thế giới qua 2 ngã:

- Nam Tông

- Bắc Tông

NAM TÔNG: giữ gìn truyền thống của Đức Phật, bảo thủ, nền tảng là Tam Tạng Pāli, truyền bá qua Sri Lanka, Thái Lan, Miến điện, Lào, Campuchia, Nam Dương, Việt NamTây Phương

BẮC TÔNG: phát triển theo thời đại, cấp tiến, nền tảng là Tam Tạng Sanskrit, truyền bá qua Afghanistan, Trung Hoa, Mông Cổ, Tây Tạng, Nhật bản, Triều Tiên, Việt NamTây Phương.

Trên đây là khái quát về những sự kiện lịch sử Phật giáo dẫn đến việc truyền bá Phật giáo qua hai ngã: Nam truyền và Bắc truyền, hay Nam tôngBắc tông. Tiếp theo chúng ta thử tìm hiểu xem vì đâu có danh xưng Tiểu thừa (Hīnayāna) và Đại thừa (Mahāyāna) sau này. Thực ra dường như không có sử liệu ghi rõ việc này. Vì thế sau đây chỉ là vài nhận định thô sơ qua các dữ kiện lịch sửthực tế, về tâm lý con người (người trẻ thích đổi mới, theo kịp thời đại; người già muốn giữ nề nếp cũ theo truyền thống, không muốn thay đổi), hay về quan điểm của xã hội bấy giờ.

Dường như cái vết rạn nứt đầu tiên xuất hiện trong kỳ kết tập kinh điển lần thứ II.

Cái nhân đầu tiên là nhóm tu sĩ trẻ dân Vajji (Pāli) (Vrijji –Sanskrit) ở Vesali (Tỳ xá ly) đã tự ý thay đổi 10 điều trong giới luật của Đức Phật. Thiệt ra những điều răn cấm này không quan trọng, không phải là căn bản. Nhóm tu sĩ trẻ Vajji gọi là Thập Tịnh:

1. Diêm tịnh: thức ăn ướp muối để cách đêm vẫn được dùng.

2. Chỉ tịnh: có thể ăn quá giờ ngọ một chút, trong khoảng thời gian mặt trời xế bóng chừng hai lóng tay.

3. Tụ lạc gian tịnh: được ăn thêm lần nữa nếu đến làng khác mà chưa quá ngọ.

4. Trụ xứ tịnh: ở đâu thì bố tát tại đó.

5. Tùng ý tịnh: những quyết định đã thông qua, dù đa phần hay thiểu số, đều có hiệu lực.

6. Cửu trụ tịnh: làm theo thói quen tiền lệ vẫn không trái với giới luật.

7. Sinh hòa hợp tịnh: sau giờ ngọ, có thể uống nước pha với sữa.

8. Bất ích lũ ni sư đàn tịnh: tọa cụ nếu không có viền chung quanh thì có thể dùng khổ lớn hơn qui định.

9. Thủy tịnh: có thể dùng rượu pha với nước để uống trong trường hợp chữa bệnh.

10. Kim tiền tịnh: trong trường hợp cần thiết, Tỳ kheo có thể giữ tiền bạc.

Trưởng lão Yasa cho 10 việc trên đây trái với luật Phật chế, là phi pháp. Để xét lại căn cứ giới luật của 10 việc này, ngài bèn tổ chức cuộc kết tập lần thứ 2. Kết quả, Thượng tọa bộ đã nhất trí cho rằng 10 việc này trái với giới luật của Phật chế.

Như vậy, sự kiện bất đồng ý kiến đầu tiên giữa hai tập thể Tăng trẻ cấp tiếnTăng bảo thủ là về Giới luật. Từ đó chia ra hai bộ phái lớn: Theravāda và Mahāsāmghika. Theo thời gian từ đó, lần lần thêm sự bất đồng ý kiến về giảng giải Kinh và Luật, các bộ phái thi nhau xuất hiện và thi nhau viết Luận thư.

Thêm một sự kiện bất đồng ý kiến quan trọng nữa trong sử liệu là do ngài Mahādeva / Đại Thiên chủ trương, liên hệ tới việc giảng Kinh, viết Kinh và quả vị A la hán, dưới thời đại vua Aśoka:

-           Người giảng pháp giỏi có quyền viết Kinh.

-           Vị Arahant có thể vẫn còn 5 điều chưa hoàn hảo / Ngũ sự Arahant.

Ngài Đại Thiên đưa ra:

"Dư sở dụ, vô tri,

Do dự, tha linh nhập,

Đạo nhân thanh cố khởi,

Thị danh chân Phật giáo"

Nghĩa là:

(1) Bậc A La Hán tuy đã đoạn tận hết phiền não nhưng vì còn nhục thân nên về sinh lý vẫn có hiện tượng di tinh trong mộng mị (Dư sở dụ).

(2) A La Hán đã đoạn tận vô minh nhưng không phải là người biết hết mọi điều trong đời sống thế tục (vô tri).

(3) A La Hán tuy không còn do dự về con đường giải thoát, nhưng vẫn còn những do dự về các điều vô hại, như làm thế nào thì hợp lý, thế nào thì không (Do dự).

(4) Có vị đã chứng đắc A La Hán đôi khi phải nhờ Phật hay bậc sư trưởng chỉ dẫn mới biết là mình đã chứng ngộ (tha linh nhập).

(5) A La Hán cũng có vị ngộ đạo nhờ vào âm thanh thuyết pháp, trong đó có sự thuyết khổ và than khổ (Đạo nhân thanh cố khởi).

Và ngài Đại Thiên cho như vậy là hoàn toàn đúng với Phật pháp (Thị danh chân Phật giáo).

Ngài quan niệm rằng chỉ có Phật mới là hoàn hảo, còn A La Hán vẫn còn những khiếm khuyết. Quan niệm này đã dấy lên những bất đồng. Nhóm tán thành lập ra Đại chúng bộ, nhóm phản đối, lập nên Thượng tọa bộ.

Phong trào Đại thừa có thể từ từ thành lập sau kỳ Kết tập kinh điển lần thứ IV, thế kỷ II sau công nguyên. Đại chúng bộ gồm thành phần trẻ tư tưởng phóng khoáng, cấp tiến, trở thành Đại thừa, hệ Theravāda, thành phần lớn tuổi, bảo thủ, giữ đúng Kinh và Luật của Đức Phật, trở thành Tiểu thừa.

Sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ IV, trong 7 bộ luận thư bằng tiếng Sanskrit có bộ Đại thừa khởi tín luận của ngài Mã Minh. Có thể danh xưng Đại thừa xuất hiện từ đây. Vì hệ thống kinh Đại thừa lấy Tam Tạng kinh điển bằng tiếng Sanskrit làm nền tảng cho mình. Về sau Tam Tạng bằng tiếng Sanskrit được xem là bán tiểu thừa bán đại thừa.

“Thừa” có nghĩa là cổ xe. Cổ xe nhỏ chuyên chở ít người, cổ xe lớn chuyên chở nhiều người. Chúng ta thử tìm hiểu thêm về hai hệ thống này.

Hệ Theravāda hay Tiểu thừa: gồm tất cả 11 bộ phái (10 bộ phái tách ra và bộ phái gốc) chủ trương những điểm chính sau đây:

-       Đức Phật Thích ca là vị Phật lịch sử duy nhất.

-       Con đường tu có 4 giai đoạn: tu đà hoàn, tư đà hàm, a na hàm, a la hán. Gọi là A la hán đạo.

-       A la hán khi ra đi thì nhập vô dư Niết bàn, gọi là giải thoát hoàn toàn, không tái sinh bất cứ cảnh giới nào.

-       Nội dung pháp tu bắt đầu, nghiêng về tục đế bát nhã:

. Tam pháp ấn: vô thường, khổ, không (không ta, không cái của ta), vô ngã.

. Tứ diệu đế

. Tứ niệm xứ.

. Như thực.

-       Đường lối:

. Phải xuất gia mới có thể tiến tu các pháp quan trọng.

. Chỉ có tăng đoàn tỳ kheo. Không cho người nữ xuất gia.

. Xuất gia rồi phải vào rừng núi ẩn tu.

. Phải khất thực để sống.

 

Hệ Đại thừa 9 bộ phái tất cả (8 bộ phái tách ra và bộ phái gốc) chủ trương:

-       Ngoài Đức Phật Thích ca, có vô số chư Phật thường trụ ở khắp mười phương ba đời.

-       Phật có ba thân: Pháp thân, báo thânứng hóa thân.

-       Bồ tát: có thể là tu sĩ hay cư sĩ, người có nguyện vọng tu tới quả vị Phật mới là hoàn toàn.

-       Bồ tát đạo: sau khi chứng ngộ quả vị A la hán rồi, không nhập niết bànphát tâm đời đời tái sanh để giáo hoá chúng sinh

-       Người giỏi giảng pháp có thể viết Kinh. Do đó có nhiều kinh điển đại thừa lần lượt ra đời, nổi bật nhất là hệ thống kinh Ma ha bát nhã ba la mật đa, ngoài rakinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Duy Ma Cật, kinh Viên Giác, kinh A di đà v.v...

-       Nội dung các pháp tu quan trọng dường như nghiêng về việc khai triển các chủ đề thuộc về chân đế bát nhã: Không tánh, Huyễn tánh, Chân như tánh.

-       Đường lối:

. Chấp nhận: tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, gọi là bốn chúng đều được tu học.

. Không bắt buộc xuất gia, ai cũng có Phật tánh, đều có thể chứng ngộ như nhau.

. Phải sống trong đời để nhiếp phục và giáo hoá chúng sanh.

Tổng quát lại, chúng ta thấy có danh xưng hệ Tiểu thừa:

+ Có thể vì cái thấy thực tiễn, toàn bộ Phật, Pháp và Tăng, thiên về lãnh vực Hiện tượng học (Phenomenology)

+ Điều kiện tu theo khuôn mẫu của Đức Phật Thích ca: xuất gia, khất thực, ẩn tu (khổ hạnh)

+  Chú trọng tới các giai đoạn tu thứ lớp, như là tiệm giáo, thích hợp đa số người căn cơ trung bình: quán, chỉ, định, tuệ / văn,tư, tu.

Trong khi hệ Đại thừa: tiêu biểu là hệ kinh Bát nhã ba la mật đa, kinh Duy Ma Cật, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Thủ Lăng Nghiêm, kinh Kim Cang, kinh Pháp Bảo đàn...

+ Cái thấy siêu vượt, tới những chân lý cuối cùng về bản thể của Phật- Pháp và Tăng, thuộc lãnh vực Bản thể học (Ontology).

+ Mở rộng con đường tu, phóng khoáng, bình đẳng cho tất cả: trong tuyên ngôn “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”, “Phật Thích ca là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, chấp nhận tu sĩ nam, tu sĩ nữ, cư sĩ nam, cư sĩ nữ đều được tu học ngang nhau.

+ Lý tưởng cuộc sống là: “tự giác- giác tha” hay “tự độ- độ tha”, tức là nhập thế, không chủ trương ẩn tu, không bắt buộc xuất gia. Nhưng vẫn theo đời sống trong sạch của bậc thánh.

-       Không nhập vô dư niết bàn, mà phải phát tâm đời đời tái sanh theo bồ tát hạnh, cuối cùng hướng tới quả vị Phật.  

 

Kết lại, hệ Tiểu thừa vì chủ trương khe khắt và giữ giới luật nghiêm minh, nên lần lần xa rời đời sống xã hội, tu tập khép kín trong tu viện, hay nơi rừng núi; trong khi hệ Đại thừa truyền lan qua các dân tộc ở phía bắc Ấn, hòa đồng, pha trộn với các tín ngưỡng địa phương, như ở Tây tạng, Trung Hoa, Nhật bản, Triều Tiên, Việt nam...

Đến năm 1954- 1956, danh xưng Tiểu thừaĐại thừa mới chính thức xóa bỏ. Từ đây, là hệ Theravāda và hệ Phật giáo Phát Triển (Developing Buddhism).

Tuy nhiên, ở Việt Nam, hệ Theravāda có khi được dịch ra là hệ Phật giáo Nguyên thủy. Chúng ta cần xác định rõ điểm này.

Giáo đoàn sơ khai, hay giáo đoàn nguyên thủy, là giáo đoàn do Đức Phật lãnh đạo và kéo dài tới khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Phật giáo thời đầu tiên này là thống nhất, chưa chia hai bộ phái. Danh xưng dịch qua tiếng Anh là: Primitive Buddhism / Early Buddhism/ Phật giáo sơ khai/ Phật giáo nguyên thủy.

Sau khi chia ra hai bộ phái lớn, có danh xưng lần lượt:

1-    Theravāda (Trưởng lão bộ hay Thượng Tọa bộ) /Southern Buddhism (Nam tông ) / Hīnayāna (Tiểu thừa) / cuối cùng là hệ Theravāda.

2-    Mahāsāmghika (Đại chúng bộ) / Northern Buddhism (Bắc tông)/ Mahāyāna (Đại thừa) và cuối cùngPhật giáo Phát triển (Developing Buddhism).

 

 Trên đây chỉ là vài nhận định thô sơ về sự hình thành thời kỳ phân chia bộ phái trong lịch sử Phật giáo trước công nguyên trong dây duyên khởi trùng trùng của các pháp. Tuy vậy, tất cả các bộ phái thời đó trong hai dòng truyền thừa lớn này đều giữ gìn những Pháp tu căn bản từ đức Phật Thích ca và cùng hướng tới mục tiêu cuối cùng là thoát khổ, giác ngộgiải thoát.

Ngài Nghĩa Tịnh (635- 713 CE), danh tăng đời nhà Đường, Trung Hoa, đã phiên dịch nhiều Kinh Phật từ tiếng Sanskrit sang tiếng Trung Hoa, nhận định tổng quát về sự kiện phân liệt bộ phái Phật giáo như sau:

“Giáo pháp của Đức Phật như cây gậy bằng vàng, bị gảy ra 18 khúc. Khúc nào cũng bằng vàng”.

 

Thiền viện ngày 10- 10- 2021

TN

 
Line 2
HAI DÒNG TRUYỀN THỪA
audio-icon_thumbnail
(CLICK vào icon tam giác để nghe - CLICK vào icon 3 dấu chấm để download)

 

  

Ý kiến bạn đọc
15 Tháng Mười 20218:45 SA
Khách
Theo Ni Sư, du lịch thời gian.
2600 năm, nhìn lại từ đầu.
Không ghi chép, giáo pháp Phật dạy.
Không lý luận, im lặng thực hành.
Phật nhập diệt, giáo pháp thành văn.
Kinh luật luận, mấy phen kết tập.
18 khúc gãy, bao lần phân chia.
Cây gậy xưa, có ai nhận ra.
Tỳ kheo xưa, nghe Pháp hôm nay.
Vàng năm xưa, vốn không thay đổi.
Vị biển xưa, giác ngộ giải thoát.
Theo Ni Sư, nhìn lại từ đầu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08 Tháng Giêng 20235:46 CH(Xem: 1593)
Es gibt kein Phänomen oder Ereignis, das unabhängig und von selbst oder zufällig gebildet und entwickelt wird.
05 Tháng Giêng 20239:01 SA(Xem: 1486)
Các bạn ơi, đây cũng chỉ là một bài ghi lại chuyện sinh hoạt trong tháng 12- 2022 này, mình trở về thăm thiền viện Chân Như, ở Navasota thuộc Texas. Không thể nói là”chuyến du hóa” được vì thiền viện Chân Như là “nhà mình” mà.
27 Tháng Mười Hai 20223:39 CH(Xem: 1445)
Meditation hilft der Menschen, harmonisch mit der Umwelt zu leben. Eine Harmonie zwischen Körper und Geist eines Individuums, eine Harmonie zwischen einem Individuum und anderen Individuen und eine Harmonie zwischen einem Individuum und der Natur.
24 Tháng Mười Hai 202212:22 CH(Xem: 1436)
... Không có cái nào độc lập và tồn tại vững chắc. Chỉ vì tất cả hiện tượng đều vô ngã, tức không thực chất tính, chúng nương tựa vào nhau mà trở thành.
17 Tháng Mười Hai 20227:50 SA(Xem: 1640)
Toàn thể cơ quan tâm-vật lý này ở trong luồng thường hằng như bánh xe quay không bao giờ ngưng. Nó cứ quay mãi, và cơ quan tâm-vật lý cứ trôi lăn mãi trong vòng luân hồi.
11 Tháng Mười Hai 202210:19 SA(Xem: 1668)
Trong 12 mắt xích, Thức (viññāṇa) và Danh - Sắc (nāma-rūpa) được xem là mắt xích cơ bản. Từ hai mắt xích này, tất cả những liên quan chủ thể-khách thể trong kinh nghiệm bình thường được phát xuất, và cấu trúc năng động cũng bộc lộ sự vận hành bên trong tâm. Thông qua chúng, sự chuyển biến của chúng ta từ vô minh đến giác ngộ có khả năng thực hiện được.
06 Tháng Mười Hai 20227:49 CH(Xem: 1472)
Nội dung bài pháp ngắn này, đức Thế Tôn cho biết ở đời có bốn hạng người hiện hữu. Đó là hạng người đi thuận dòng, hạng người đi ngược dòng, hạng người tự đứng lại và hạng người khác là vị Bà-la-môn vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.
06 Tháng Mười Hai 20226:19 CH(Xem: 1447)
Không có một hiện tượng nào được hình thành và phát triển mà ở trong trạng thái độc lập hay cô lập hoặc ngẫu nhiên.
05 Tháng Mười Hai 20226:51 CH(Xem: 1430)
Das Bāhiya Sutra ist eine Lehrrede des Buddhas über die Funktionen der Naturen: die Natur des Sehens, die Natur des Hörens, die Natur des Berührens und das Nonverbale Bewusstsein.
28 Tháng Mười Một 20226:21 CH(Xem: 1499)
... Tưởng ám chỉ nhị nguyên chủ thể khách thể (subject-object duality). Vì nó là cái biết (knowledge) đạt được do sự cảm thấy đối tượng bên ngoài và bên trong thân xuất phát từ sự cung cấp sáu loại dữ kiện của Thọ. Sự cảm thấy này tạo thành một biểu tượng trong tâm gọi là tri giác biểu tượng...
24 Tháng Mười Một 20225:13 CH(Xem: 1346)
Sống ở đời, không ai là không có bạn. Nếu không khéo, mình kết thân với những người bạn xấu, bạn ác thì cuộc đời của mình ngày càng đi vào ngỏ hẹp. Về vấn đề này, đức Phật cũng có những lời khuyên dạy cho đệ tử xuất gia và tại gia của Ngài.
20 Tháng Mười Một 20227:22 SA(Xem: 1466)
Trở lại bờ này Về lại nhà xưa, Chợt thấy, ngôi nhà xưa Là chính bờ bên này.
19 Tháng Mười Một 20222:48 CH(Xem: 1692)
Der Hauptgrund dieses Leidens ist, dass wir eine falsche Sicht über das Leben, über die weltlichen Phänomene und vor allem über uns selbst haben.
18 Tháng Mười Một 20225:43 CH(Xem: 1520)
Đi trên con đường Thiền, ta cần nắm vững toàn bộ các mặt trong mỗi tiến trình của Tứ Đế để dễ nhận ra phương thức thực hành tiến đến chữa dứt khỏi Khổ cho chính mình.
16 Tháng Mười Một 20227:50 SA(Xem: 2259)
Chánh niệm tỉnh giác giúp tâm dừng lại để sống trọn vẹn với cái đang là. Khi tỉnh giác, năng lượng Phật được biểu hiện, khi thất niệm năng lượng chúng sanh có mặt.
15 Tháng Mười Một 20225:46 CH(Xem: 1377)
Trí Bát Nhã siêu thế có thể thấy một cách đúng đắn như thật (yathābhūtam pasyati) thì gọi là chứng. Còn trí không phân biệt thì có thể thông đạt (Skt: samvidate: know thoroughly), cho nên gọi là được (Kinh Bát Nhã 567).
07 Tháng Mười Một 20229:20 CH(Xem: 1513)
Tỳ-khưu-ni lỗi lạc, vang danh bậc nhất về Đại Trí Tuệ trong Ni giới. Đó là nữ tôn giả Khema. Đặc biệt là Khema đã chứng quả Thánh cao thượng, chỉ sau một thời pháp của đức Phật, ngay khi bà còn là một hoàng phi cao sang quyền quý, chưa hề xuất gia, chưa hề quy y Tam Bảo, chưa phải là đệ tử của đức Phật Gotama.
07 Tháng Mười Một 20227:29 SA(Xem: 1515)
Điểm then chốt của bài pháp ngắn gọn này là nhấn mạnh đến nguyên tắc kinh nghiệm giác quan. Đó là khi giác quan kinh nghiệm được điều gì hãy để nó kinh nghiệm mà không để tự ngã can thiệp vào. Nếu biết khai thác nguyên lý này, ta cũng sẽ có kinh nghiệm ngộ đạo
01 Tháng Mười Một 20228:22 CH(Xem: 2320)
Thực tại cùng tột là chân lý tuyệt đối, chỉ bằng nhận thức khách quan mới có thể nhận biết được bản chất của thực tại. ...
01 Tháng Mười Một 202210:45 SA(Xem: 2742)
Kinh Bāhiya là bài kinh Phật dạy liên hệ đến những chức năng bên trong cơ chế tánh giác gồm tánh thấy, tánh nghe, tánh xúc chạm và nhận thức không lời.
31 Tháng Mười 202211:01 SA(Xem: 1609)
Das Leiden entsteht durch das Ursache und Wirkungsprinzip. Aus welcher Ursache entsteht das Leiden? Aus Ursache der Berührung.
24 Tháng Mười 20223:06 CH(Xem: 1987)
Phật giải thích: “Khổ do duyên mà sanh. Do duyên gì? Do duyên xúc ... Không cần đến xúc, sự kiện như vậy không xảy ra”.
23 Tháng Mười 20224:01 CH(Xem: 1471)
... con thuyền để chuyên chở mình đi trên giòng sông tâm linh là Tánh nguyên tắc. Mình phải cương quyết, với ý chí dũng mãnh giữ gìn những nguyên tắc sống thích hợp với những chân lý mà Đức Phật dạy. Đó là Tánh nguyên tắc trong thiền.
17 Tháng Mười 202212:03 CH(Xem: 1628)
Thiền dạy ta thấy, chứ không dạy ta suy nghĩ. Vì thế, suy nghĩ luôn luôn đối nghịch với Thiền. Thiền là sản phẩm của thấy. Suy nghĩ là sản phẩm của tưởng tượng.
10 Tháng Mười 20222:16 CH(Xem: 1894)
... ý thức là cái biết có tính phúc trình hay biết công bố (declarative knowledge), còn tánh giác là cái biết có tính trầm lặng (reticentability) ...
02 Tháng Mười 20226:59 CH(Xem: 1825)
Lý do chủ yếu của những nỗi thống khổ đó là do ta có cái nhìn lầm lạc (a perverted vision) về cuộc đời, về thế gian và hiện tượng thế gian; đặc biệt nhất là ta lầm lạc đối với chính ta.
01 Tháng Mười 20224:42 CH(Xem: 1656)
Der Buddha sagte, dass die Menschen so viel Tränen vergossen haben, so dass sie einen riesigen Ozean bilden könnten. Das Gelächter von zwei Geschwistern könnten aber nur zwei Regentonnen voll ausfüllen.
28 Tháng Chín 20229:36 SA(Xem: 3661)
Ai có Tâm vì người ? - Người Vô Ngã ! Thế nào là người Vô Ngã? - Sống với các Tánh ! Tại sao sống với các Tánh mới có Tâm vì người ? Vì người Có Ngã Tâm lúc nào cũng vì Ngã Không thể vì người được !
17 Tháng Chín 20227:29 SA(Xem: 2133)
Zusammenfassend lässt sich sagen, dass alle weisen Mönche voller Tugend, übernatürliche Kräfte und Weisheit besitzen. Jeder Ehrwürdige hat eine Sonderfähigkeit, obwohl sie unterschiedlich sind aber sie sammelt sich wie ein Blumengarten mit Hunderten von verschiedenen Blumen und jede Blume gibt ihren eigenen Duft ab und zeigt ihre prächtige Farbe.
17 Tháng Chín 20227:14 SA(Xem: 1648)
Thân là phần thể xác, có hình vóc, nên người ta có thể trông thấy và va chạm. Còn tâm là phần tinh thần, tinh thần thì siêu hình không ai có thể nhìn thấy hay sờ mó được. Tuy siêu hình nhưng tâm chính là cái biết, là ý thức, là chủ thể ra lệnh cho thân làm việc theo ý muốn của nó. Tâm cũng có nhu cầu chăm sóc tắm rửa làm vệ sinh như thân thể vậy!
13 Tháng Chín 202210:43 SA(Xem: 1487)
Từ ta cánh nhạn bên trời, Bay qua nhập cuộc sống đời hư hao. Chiều theo cơn gió qua mau, Trăng đêm thấp thoáng lao xao chạnh lòng
12 Tháng Chín 20226:11 CH(Xem: 2007)
Thiền giúp cho cuộc sống con người được hài hòa cùng với môi trường chung quanh. Đó là những sự hài hòa giữa thân và tâm của cá nhân, hài hòa giữa cá nhân này với cá nhân kia, và hài hòa giữa cơ thể của cá nhân với thời tiết trong thiên nhiên.
12 Tháng Chín 20226:00 CH(Xem: 1650)
"Đó là không bị nhiễm bởi bất cứ ý nghĩ gì của ngã. Bố thí của cải không đủ, chừng nào mà ý nghĩ nhỏ nhất của ngã còn lại trong việc bố thí, nó sẽ hủy hoại hết việc thiện của ông. Những ý nghĩ của ngã che lấp ngay cả mục tiêu cao thượng, như tro che dấu lửa, nếu dẫm chân lên đó, bàn chân sẽ bị bỏng."
05 Tháng Chín 202210:06 CH(Xem: 1740)
Thấm thoát gần đến ngày tưởng niệm giỗ đầu của Thầy Thích Không Chiếu ... Khi bắt đầu sấp xếp giấy tờ riêng của Thây, em có thấy 1 bài thơ Thầy ghi trên giấy rời: `` Hải Đảo Tự Thân `` Xem đi, xem lại nhớ Thầy vô cùng. Và em cũng xin gởi đến chị dù không biêt lúc xưa chị đã được xem chưa ... Thu Bình và các em ..
03 Tháng Chín 202210:40 SA(Xem: 1972)
Einmal fragte mich jemand: Meisterin, können Sie die Struktur des Kultivierungsweges vereinfachen, damit wir ihm leichter folgen können, bevor Sie in die Ruhe gehen? Es gibt ja keinen realen Weg. Kultivierung heißt nur, den eigenen Geist zu beobachten und der Geist sind wir selbst. Wenn wir nach einem Weg suchen, heißt es, dass wir verirrt sind, da wir draußen suchen, was in uns drin ist.
02 Tháng Chín 202210:43 SA(Xem: 1802)
“Về các pháp phát sanh do nguyên nhân, nguyên nhân ấy, Như Lai đã chỉ rõ, Và cũng chỉ dạy cách chấm dứt, đó là giáo huấn của vị Đại Sa Môn”
29 Tháng Tám 202211:03 SA(Xem: 2178)
My young friends once told me heartfeltly: “Lady Master, before your retirement, please standardize the method from its beginning to its end so we can easily follow it.” To be frank, there is not a distinct road. The spiritual cultivation is just how to see your mind. We ourselves are in our own mind. Is there any other way? Launching our mind beyond our physical body to look for something outside is to get lost.
27 Tháng Tám 20222:08 CH(Xem: 1557)
84.000 Dharma-Türen bedeuten auch keine Dharma-Türe. Wieso? Egal wo wir sind, wir können das Haus betreten, wann und wo wir wollen, da es unser eigenes Haus ist. Wir befinden uns bereits in diesem Haus. Nur haben wir es nicht wahrgenommen, weshalb haben wir es überall gesucht. Wenn wir aber ein einfaches und natürliches Leben führen würden, würden wir schon in unserem eigenen Haus wohnen.
24 Tháng Tám 20228:04 SA(Xem: 2742)
VIDEO Ni sư Triệt Như hướng dẫn KHÓA TU ĐẶC BIỆT Tổng kết ngày 13 tháng 8 năm 2022 tại HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG ONTARIO CANADA
24 Tháng Tám 20227:55 SA(Xem: 1749)
Ngay lúc đó, đức Phật công bố rằng ông đã nhận được pháp nhãn (the eye of Dhamma). Phật buột miệng tán thán ngài Kiều Trần Như. Phật nói: “Kiều Trần Như, ông đã ngộ”. “Kiều Trần Như, ông đã ngộ”. (“aññāsi vata bho Kondañño,” “aññāsi vata bho Kondañño.”)
20 Tháng Tám 20221:28 CH(Xem: 1706)
„Was kommen wird, muss sterben“. Wahrscheinlich haben wir diese Wahrheit nicht akzeptieren wollen. Wir werden dann traurig oder ängstlich sein, wenn wir krank sind. Liebe Freunde, ist die Krankheit doch nicht eine Illusion der Sprache?
15 Tháng Tám 20226:56 SA(Xem: 2767)
Ni sư Thích nữ Triệt Như hướng dẩn KHÓA TU ĐẶC BIỆT - Phần 1 tại HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG ONTARIO CANADA Ni Sư Triệt Như giới thiệu nội dung và mục đích của khóa tu. Bài tập về thiền hành với chủ đề: Biết sự xúc chạm khi đi - Cái biết đặt dưới bàn chân
13 Tháng Tám 20224:40 CH(Xem: 1954)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra. Muốn thoát khổ thì cũng phải chính mình tháo gỡ sợi dây ràng buộc đó chứ không Thần Phật nào cứu rỗi, ban ơn, giáng họa cho mình được.
10 Tháng Tám 20227:09 SA(Xem: 2517)
Sự thật muôn đời: hễ cái gì có sinh ra, thì phải có lúc chấm dứt, biến mất, hoại diệt. Nhưng dường như chúng ta chưa chấp nhận sự thật này. Nên chúng ta buồn khổ vì bệnh. Các bạn ơi, như vậy bệnh có phải chỉ là ảo giác ngôn ngữ?
69,256