HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Triệt Như SNHP032: NAM HUỆ NĂNG- BẮC THẦN TÚ

27 Tháng Mười 20218:21 CH(Xem: 3822)

 Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - Bài 32

NAM HUỆ NĂNG- BẮC THẦN TÚ
32 SUOI NGUON HANH PHUC 4 X 6 VN

Có khi người ta nói: Nam Đốn- Bắc Tiệm. Chúng ta xem lại truyện về hai ngài Huệ NăngThần Tú.  Cả hai vị đều là đại đệ tử của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.

Huệ Năng (638-713) Ngài họ Lô (hay Lư), người xứ Tân Châu, Nam hải. Cha ngài khi xưa làm quan, không biết vì sao bị giáng chức và cả gia đình bị đày về Lãnh nam. Sau đó, cha ngài mất sớm, lúc ngài mới 3 tuổi. Nhà nghèo, ngài không được học hành, mà phải vào rừng đốn củi đem ra chợ bán, đổi lấy gạo về nuôi mẹ qua ngày. Người gầy ốm nên khi vào giả gạo nơi ngài Hoằng Nhẫn, Huệ Năng phải đeo thêm đá trên lưng mới đạp nổi cái chày.

Thần Tú (605- 706) Ngài họ Lý, người Biện Châu, huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam. Dáng Ngài cao lớn, oai nghi. Thuở trẻ đã làu thông kinh sử, Nho giáo, Lão giáo. Đến khoảng năm 50 tuổi nghe tiếng Ngũ Tổ, mới tìm đến thọ giáo, được Ngũ Tổ cho làm Giáo thọ, hướng dẫn tăng chúng mấy trăm người.

Năm 684, Vũ Tắc Thiên chấp chính, 6 năm sau đổi quốc hiệu là Chu, lên ngôi Hoàng đế. Vũ Tắc Thiên sùng kính đạo Phật, mời Đại sư Thần Tú đến Lạc Dương, bái Ngài làm Quốc sư. Năm 701, Thần Tú hơn 90 tuổi vào triều, Tắc Thiên đích thân đến quỳ lễ đón. Đại sư Thần Tú rất là khiêm tốn, tâm lượng quảng đại, nói với Tắc Thiên là Huệ Năng ở phương nam là người được truyền y bát. Tuy nhiên, khi nhận được chiếu chỉ triệu thỉnh về kinh đô, ngài Huệ Năng đã viện cớ tuổi già sức yếu từ chối.  

Đại sư Thần Tú được tôn là Pháp chủ lưỡng kinh (Trường An, Lạc Dương), Quốc sư tam đế (Vũ Tắc Thiên, Đường Trung Tông, Đường Duệ Tông). Sư chủ trương “Tọa thiền tập định”, “Trụ tâm quán tịnh”.(Phải thường xuyên ngồi thiền để tu tập định lại tâm, tâm phải trụ lại để được tĩnh lặng).

Về tiểu sử của ngài Huệ NăngThần Tú, có rất nhiều chi tiết, ở đây, chúng ta không nhắc lại. Chúng ta chỉ thảo luận vấn đề quan trọng là hai đường lối giáo hoá của hai vị thiền sư nổi tiếng, cùng một vị bổn sư, cùng một thời đại. Đó là Đốn giáoTiệm giáo.

Sự khác biệt đầu tiên được thể hiện rõ nét qua bài kệ trình kiến giải với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.

Đây là bài kệ của ngài Thần Tú, đang làm Giáo Thọ đứng đầu tăng chúng trong chùa:

Thân thị Bồ-đề thọ,

Tâm như minh cảnh đài,

Thời thời thường phất thức,

Vật sử nhạ trần ai.

 Dịch:

Thân như cây bồ-đề,

Tâm như đài gương sáng,

Luôn luôn phải lau chùi,

Chớ để dính bụi nhơ.

Thiền phương Bắc được gọi là tiệm giáo, xuất xứ từ bài kệ này của ngài Thần Tú.

Và đây là bài kệ trình kiến giải của ngài Huệ Năng khi ấy còn là cư sĩ, giã gạo trong chùa, chưa được vào tăng chúng để tu học.

Bồ-đề bổn vô thọ,

Minh cảnh diệc phi đài,

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ nhạ trần ai?

Dịch:

Bồ-đề vốn không cây,

Gương sáng cũng chẳng đài,

Xưa nay không một vật,

Chỗ nào dính bụi nhơ?

Thiền phương Nam được xem là Đốn giáo, do ngài Huệ Năng xiển dương, 15 năm sau khi được Ngũ Tổ truyền y bát.

Trên đây là vài nét giới thiệu ngài Huệ Năng và ngài Thần Tú. Trọng tâm của bài viết này là tìm hiểu hai phương thức tu học, cũng là hai phương thức giáo hoá, thường chúng ta đặt tên là:

Đốn giáo- Tiệm giáo

Đốn ngộ- Tiệm ngộ

Đốn tu- Tiệm tu v.v...hay có khi cũng nói là:

Giáo pháp liễu nghĩa- Giáo pháp bất liễu nghĩa

Chân đế bát nhã- Tục đế bát nhã...v.v...

Trước nhất, ta thử tìm hiểu những kinh nghiệm sống và tu tập của ngài Huệ Năng và ngài Thần Tú, từ đó đưa tới hai phương cách giáo hoá sau này.

Sự kiện đầu tiên là ngài Huệ Năng, khoảng 24 tuổi, vẫn còn ngày ngày vào rừng đốn củi, mang ra chợ bán, đổi gạo đem về nuôi mẹ. Là một người con hiếu thảo, an phận nghèo, trong chế độ quân chủ chuyên chế, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” (Vua xử kẻ bề tôi chết thì phải chết, nếu không chịu chết thì là người không trung thành), cha mắc tội bị đày vào xứ biên địa “khỉ ho cò gáy”, không được hưởng chút quyền lợi nào, không được đi học. Gia đình ngài giống như sống bên ngoài rìa của xã hội bấy giờ. Có thể chính hoàn cảnh nghèo không được đi học đã giúp ngài Huệ Năng không vướng vào văn tự, lý luận, phân tích chi ly giáo pháp, mà sách sử gọi là “sở tri chướng” cho sự sáng đạo của hành giả thiền.

Nhưng một hôm, nhân gánh củi cho một nhà kia, chợt nghe ai đó tụng đọc câu kinh: “Bất ưng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (Không nên khởi tâm dính mắc vào bất cứ hiện tượng thế gian: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Tâm không dính mắc nơi nào mới là tâm kỳ diệu), Huệ Năng chợt tỉnh ngộ, nhận ra một lối thoát cho mình. Sau khi biết đó là kinh Kim Cang, ngài Hoằng Nhẫn đang giảng dạy tại huyện Hoàng Mai, Huệ Năng nhờ được người giúp đỡ lo cho mẹ chu đáo, liền từ giả mẹ tìm đến Hoàng Mai.

Đây là cái nhân và duyên thuận lợi đầu tiên, đưa Huệ Năng trở về Phật pháp. Tuy nhiên mình cũng nhận ra Huệ Năng đã là bậc thượng căn, thông minh, sắc bén. Người đời, nghe hay đọc tụng kinh Kim Cang hoài, có mấy ai phát tâm dũng mãnh như Huệ Năng.

Sử liệu có ghi chuyện ngài Huệ Năng khi mới chào đời, có hai vị Tăng phương xa tới nhà, đặt tên cho ngài là Huệ Năng, rồi ra đi mất. Lại sử cũng có chỗ nói khi ngài mới chào đời, hương thơm toả ra khắp nhà. Điều này có nghĩa là Huệ Năng đã gieo trồng căn lành với Phật pháp từ nhiều đời quá khứ rồi. Cho nên, khi trưởng thành, Huệ Năng có thể cũng đã nhận định về cuộc đời khác với Thần Tú, vì hai hoàn cảnh sống khác nhau.

Huệ Năng mất cha khi mới 3 tuổi. Làm gì những khi rảnh rang, mẹ con lại không thầm thì gợi lại cuộc đời của người đã mất. Huệ Năng biết cha là người có học đạo thánh hiền, được làm quan, nhưng lại bị giáng chức, phải rời xa thành thị, bị đày về tận vùng biên địa, nơi hoang dã. Chúng ta đọc lại sử, đó là thời nhiễu loạn của Trung Hoa, triều đình bê tha, vua không còn quyền hành, mà người thống trịVõ Tắc Thiên, ái phi của vua cha, sau khi vua mất, thái tử lên ngôi lại rước về làm hoàng hậu. Về sau lên ngôi hoàng đế. Con đường để lên ngôi hoàng đế, không biết bao nhiêu người đã chết. Võ Tắc Thiên đã từng bóp chết con gái mới sinh của mình để vu oan cho bà hoàng hậu khi bà tới thăm. Võ Tắc Thiên đã giết chết con trai của mình vì không muốn mất ngôi vua. Vậy trong khoảng cuối thế kỷ VII này, các triều vua Trung Hoa đổ nát, người dân phải cam chịu số phận mỏng manh của mình, biết kêu cứu với ai. Ta có thể hiểu vì sao Huệ Năng không được đi học chữ thánh hiền, không được ra góp mặt với đời, mà lối thoát duy nhất của Huệ Năng chỉ là Phật pháp. Và có thể đó cũng là lý do vì sao khi Võ Tắc Thiên viết chiếu chỉ mời Huệ Năng về kinh đô giáo hoá, Huệ Năng đã từ chối.

Sự kiện tiếp theo chứng tỏ Huệ Năng thông minh, sắc bén, hiểu thâm sâu Phật pháp, mặc dù Huệ Năng chưa từng học hỏi về giáo lý với ai, chưa từng đọc kinh sách vì ngài đâu có được đi học, đó là lời đối đáp với Ngũ Tổ buổi đầu yết kiến Ngũ Tổ. Phần này, xin lướt qua vì đã có nhiều sử liệu rồi, nếu các bạn muốn xem lại, rất dễ tìm. Về việc này mình có thể nói Huệ Năng đã nhiều lần “như lý tư duy”, còn vận dụng sự hiểu biết, lý luận, để suy gẫm về mình, về cuộc đời, và biết rằng hễ là con người bình thường, ai cũng có tánh giác ngộ như nhau. Huệ Năng cũng đã thông hiểu tới bản thể rốt ráotánh Không của vạn pháp. Thêm một sự kiện chứng tỏ Huệ Năng đã gieo nhiều căn lành trong quá khứ rồi, thông hiểu giáo lý rốt ráo khi chưa thưa hỏi với một vị thầy nào. Đó là bài kệ trình kiến giải của ngài, bài thi kệ nổi tiếng làm nên sự nghiệp “Thiền Đốn ngộ” cho lịch sử Thiền tông sau này.

Trong khi ngài Thần Tú, cuộc đời êm đềm may mắn hơn. Trong sử liệu không nói rõ gia cảnh của ngài, chúng ta chỉ biết ngài thuở còn trẻ, là một nho sinh, được học sách thánh hiền: Khổng tử, Lão tử. Vì thế đạo lý sống trong đời đúng theo nhân nghĩa, thể hiện qua lòng quí mến của Ngũ Tổ, cho ngài làm giáo thọ, đứng đầu tăng chúng trong chùa; toàn thể tăng chúng trong chùa cũng phục tùng ngài, nhất trí thỉnh cầu ngài đại diện mà trình thi kệ lên Ngũ Tổ. Tuy nhiênhọc hỏi nhiều kinh sách thánh hiền, lại làm giáo thọ sớm quá khi chưa sáng đạo, nên có thể cũng là một duyên khiến ngài Thần Tú chưa vào đươc chỗ “Atakkāvacara” /ngoài lý luận, ngoài lời/ không thể nghĩ bàn.

Đức hạnh của ngài Thần Tú cũng nổi bật ở điểm “tự biết mình”, khi nghe Ngũ Tổ bảo trình kiến giải để truyền Tổ vị kế thừa. Ngài đã nhiều đêm lo lắng, tâm bất an, tâm không muốn trình kệ kiến giảibiết mình chưa thông giáo lý, nhưng hoàn cảnh lại buộc phải thay thế tăng chúng mà làm kệ. Đắn đo mãi, cuối cùng phải làm kệ. Làm xong rồi, mà vẫn chưa dám trực tiếp gặp thầy để trình. Mỗi lần quyết định gặp thầy lại toát mồ hôi. Đến đổi cuối cùng giữa đêm khuya, lén ra viết kệ lên tường, không ai biết.

Sáng ra, tăng chúng xôn xao vì bài kệ, Ngũ Tổ đọc xong, thầm biết ai làm bài kệ này, ngài thuận chúng mà đối xử tế nhị với Thần Tú, ngài dạy đại chúng hãy tụng đọc và thực hành theo. Rồi chờ đêm đến, ngài gọi Thần Tú vào phòng, hỏi riêng: “Có phải ông làm bài kệ đó không?”. Ngài Thần Tú chân thật trình thầy: “Chính con. Nhưng không mong cầu tổ vị, chỉ mong trình pháp để thầy chỉ giáo thêm”. Ngũ tổ mới cho biết là chưa thấy tánh, hảy trở ra, suy gẫm lại và trình bài kệ khác. Ngài Thần Tú lại thêm một phen không ăn không ngủ. Lúc đó lại xuất hiện bài thi kệ của ngài Huệ Năng trên tường. Tăng chúng thêm lao xao, hai bài kệ đối nhau chan chát. Ngũ Tổ đọc bài kệ thứ hai, biết ngay là ai làm, ngài ứng xử sắc bén, xóa ngay bài kệ thứ hai, miệng nói: “Chưa thấy tánh”. Tăng chúng nghe theo, trở lại tụng đọc bài kệ thứ nhất.

Nhân lúc vắng người, Ngũ tổ chống gậy đi lần ra nhà sau, thấy Huệ Năng, gầy ốm, không đạp nỗi cái chày xuống để giả gạo, lưng phải mang thêm khối đá. Ngài chạnh lòng : “Người cầu pháp phải cực khổ tới như thế! Gạo trắng chưa?” Huệ Năng trả lời: “Gạo trắng rồi, còn đợi giần sàng”. Ngũ Tổ lấy gậy gõ 3 tiếng cộc cộc cộc trên cối đá rồi im lặng bỏ đi. Hai thầy trò, người hỏi, người đáp, hiểu nhau. Có người khác quanh quẩn gần đó, cũng không tài nào hiểu.

Canh ba đêm đó, Huệ Năng thầm lặng tới phòng thầy. Ngũ tổ đã chờ sẵn, im lặng khép cửa lại cài then, lấy tấm y rộng che kỹ lại không ai có thể nhìn lén vào. Ngũ tổ nhỏ giọng bắt đầu giải thích kinh Kim Cang. Huệ Năng vẫn yên lặng quỳ dưới chân thầy, chí tâm, lắng nghe, không một niệm, tâm đã vào định, vắng lặng tịch diệt, sáng ngời. Khi nghe âm thanh “bất ưng trụ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, tia chớp lóe sáng:

Nào ngờ tánh mình vốn không sanh diệt,

Nào ngờ tánh mình vốn xưa nay thanh tịnh,

Nào ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ,

Nào ngờ tánh mình vốn không dao động,

Nào ngờ tánh mình vốn sinh ra muôn Pháp.

 Ngũ Tổ nhìn thấy thần sắc ngài Huệ Năng, thầm biết Huệ Năng đã sáng đạo, ban y bát kế thừa ngay và dặn dò Huệ Năng ra đi ẩn mặt một thời gian, chưa được giáo hoá ngay.

Chúng ta nhắc lại những nhân duyên sáng đạo, hay triệt ngộ của ngài Huệ Năng để từ đó mình hiểu phương thức giáo hóa “đốn ngộ”, là ngài Huệ Năng đã ứng dụng chủ trương của tổ Bồ Đề Đạt Ma:

“Bất lập văn tự,

Giáo ngoại biệt truyền,

Trực chỉ nhân tâm,

Kiến tánh thành Phật”.

 Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Thiền sư Pháp Hải, một vị đệ tử của Ngài Huệ Năng, đã ghi chép lại lời giảng của ngài Huệ Năng, đường lối Đốn giáo của ngài Huệ Năng là:

Vô - Niệm làm Tông, Vô - Tướng làm Thể, và Vô - Trụ làm Gốc”.

Thiệt ra, vô tướng, vô trụvô niệm cũng là một, liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời được. Đường lối tu tập này là rút ra từ cốt lõi của kinh Kim Cang. Điều này dễ hiểu, chính vì Huệ Năng sáng đạo qua kinh Kim Cang.

Khi mình đang ở trong tâm vô niệm, thì không trụ vào đâu hết, không dính mắc vật gì, tức là không dính mắc vào bất kỳ tướng nào của thế gian. Phương pháp này đi trực tiếp vào chân đế bát nhã, bản thể của tâm là trong sạch, là tĩnh lặng, là thuần nhất; bản thể của vạn pháp cũng là tĩnh lặng (không tên, không lời, không phẩm chất, không thuộc tính), là trong sạch, là bất động. Trải nghiệm trạng thái tâm vô niệm thì trải nghiệm vạn pháp bình đẳng, như như bất động, cũng thông suốt bản thể trống không, như huyễn của vạn pháp.

Ngài dạy Định-Huệ (thiền-định, trí-tuệ) vốn NHẤT THỂ chẳng phải hai, Định là Thể của Huệ, Huệ là Dụng của Định, ngay trong lúc Định có Huệ, ngay trong lúc Huệ có Định. Ngài ví dụ đèn và ánh sáng, đèn là Thể của sáng, sáng là Dụng của đèn, tên tuy có hai, Thể vốn chỉ một, Định-Huệ cũng vậy.

Dưới Lục Tổ có 33 môn đệ đắc pháp, trong đó nổi bật nhất là 5 vị làm cho Thiền Tông đời sau được hưng thịnh và ảnh hưởng lớn trong Phật Giáo Trung Quốc:

1-    Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, từ pháp mạch này sinh ra Tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng.

2-    Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư, từ pháp mạch này sinh ra Tông Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.

3-    Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, tác giả của Chứng Đạo Ca và quyển Thiền Tông Vĩnh Gia Tập nổi tiếng

4-    Thiền sư Nam Dương Tuệ Trung, từng làm Quốc Sư.

5-    Thiền sư Hà Trạch Thần Hội, người định tông chỉ, đưa Thiền Nam Tông trở thành chính thống.

Đặc biệt, từ hai vị Nam Nhạc Hoài NhượngThanh Nguyên Hành Tư, Thiền Tông sản sinh vô số các Thiền sư danh tiếng truyền bá tư tưởng Đốn Ngộ, Thiền Tông trở thành Pháp môn phổ biến, thịnh hành nhất vào các thời Đường, Tống. Được truyền qua nhiều nước như Việt nam, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đến thời Minh, Thanh, Thiền bắt đầu suy yếu và nhường chổ cho Tịnh Độ Tông. Ngày nay, tuy Thiền Tông đã phần nhiều phai nhạt và không còn ảnh hưởng mấy nữa, nhưng nó vẫn là một đề tài cuốn hút đối với các tăng, ni và cư sĩ, phật tử.

Chúng ta trở lại ngài Thần Tú.

Sử sách không chú trọng nhiều tới ngài Thần Tú, có lẽ vì ngài không phải là kế vị tổ chính thức. Tuy nhiên đương thời, ngài là một danh tăng, là vị quốc sư trong 3 triều đại hoàng đế Trung Hoa: Võ Tắc Thiên, Đường Trung Tông và Đường Duệ Tông. Khi ngài được Võ Tắc Thiên thỉnh vào kinh đô, ngài đã hơn 90 tuổi. Sử có chép, ngài Thần Tú đã tiến dẫn ngài Huệ Năng là người được kế thừa chính thức, nên triệu thỉnh về kinh đô giáo hoá. Nhưng ngài Huệ Năng đã từ chối lời thỉnh mời của vua. Sự kiện này cũng chứng tỏ đức hạnh của ngài Thần Tú, đã không đố kỵ mà còn cảm phục đức độtrí tuệ của ngài Huệ Năng.

Thêm một sự kiện nữa nói lên tâm cầu pháp của ngài Thần Tú:

Hòa-Thượng Thần-Tú là người biết mình biết người, nên thường nói với đại chúng: “Lục-Tổ đắc Vô Sư Trí (tự có trí tuệ mà không cần thầy giảng dạy), triệt ngộ Pháp Tối Thượng-Thừa, ta chẳng bằng được; vả lại được Thầy ta là Ngũ-Tổ đích thân truyền Áo-Pháp, đâu phải khi không mà được; ta tiếc chẳng đi xa được để thân cận, uổng chịu Quốc-ân (ơn Vua), các vị chớ nên kẹt ở nơi đây mà nên đi đến Tào-Khê tham học”.

Một hôm Hòa-Thượng Thần-Tú bảo môn đồ thân tín là Chí-Thành: “Thầy thông minh có trí, hãy thay ta đến Tào-Khê nghe Pháp, tận tâm ghi nhớ các điều thấy nghe, rồi về lặp lại cho ta biết”.

Vâng lời thầy, Chí-Thành bèn đến Tào-Khê, theo chúng tham học mà chẳng nói từ nơi nào đến. Một hôm Lục-Tổ nói với đại chúng:

- Hiện nay có kẻ trộm Pháp đang ở trong hội này.

Bấy giờ thầy tăng Chí-Thành bước ra lễ bái và trình nguyên do. Lục-Tổ nói:

- Người của Chùa Ngọc-Tuyền đến mà không nói trước tức là mật thám vậy.

- Thưa Hòa-Thượng, chẳng phải vậy.

- Sao chẳng phải vậy?

- Lúc chưa nói ra là như thế, nói ra rồi chẳng phải vậy.

Đại-Sư hỏi:

- Thầy ông dạy chúng như thế nào?

- Thầy tôi thường dạy đại chúng “trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm”.

Ngài nói:

- Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với đạo lý có ích chi đâu, hãy nghe ta nói kệ:

Lúc sống ngồi chẳng nằm,

Chết rồi nằm chẳng ngồi,

Thật đống xương thịt thối,

Đâu lập được công phu.

Thầy Chí-Thành làm lễ mà thưa:

- Kẻ đệ-tử này theo học với Tú Hòa-Thượng, học đạo đã chín năm mà chẳng được sáng tỏ, nay nghe Hòa-Thượng nói mới một lần liền tỏ sáng bản tâm; nay sự sống chết là việc lớn, con xin Hòa-Thượng mở lòng từ-bi chỉ dạy.

Ngài Huệ-Năng nói:

- Ta nghe thầy ông dạy người học Pháp Giới-Định-Huệ, chẳng hay thầy ông nói cái hạnh tướng của Giới-Định-Huệ như thế nào?

Thầy Chí-Thành thưa:

- Thần-Tú Hòa-Thượng nói: “Những điều ác chớ làm là Giới, ý căn tự trong sạch là Định, các điều lành vâng làm gọi là Huệ”, còn Hòa-Thượng lấy Pháp gì dạy người?

- Nếu nói rằng có Pháp để dạy người đó là dối ông, ta chỉ tùy căn cơ để mở trói, phương tiện ấy giả gọi là “tam-muội”; cứ như chỗ thầy ông nói về Giới-Định-Huệ thật không nghĩ bàn được, chỗ ta nói về Giới-Định-Huệ lại khác.

Thầy Chí-Thành thắc mắc hỏi:

- Giới-Định-Huệ chỉ có một sao lại có khác?

- Giới-Định-Huệ của thầy ông độ người Đại-thừa, Giới-Định-Huệ của ta tiếp người Tối Thượng-thừa, chỗ ngộ giải chẳng đồng, sự thấy có nhanh chậm. Ta thuyết pháp chẳng lìa tự tánh, lìa tánh mà thuyết pháp khiến cho tự tánh thường mê, ấy là tướng thuyết. Nên biết tất cả các pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là Chân-pháp của Giới-Định-Huệ; hãy nghe ta nói kệ:

Tâm địa chẳng quấy, tánh mình Giới,

Tâm địa chẳng si, tánh mình Huệ,

Tâm địa chẳng loạn, tánh mình Định,

Không thêm không bớt, tánh mình Kim-cương,

Không tới không lui, vốn là tam-muội.

Chí-Thành nghe rồi cảm tạ Ngài và trình kệ:

Năm uẩn thân này huyễn,

Huyễn đâu có cứu cánh,

Trở về tánh Chân-như,

Chấp pháp vẫn chẳng tịnh.

Ngài cho là phải, và bảo:

- Nếu ngộ được tự-tánh, chẳng lập Bồ-đề, cũng chẳng lập giải-thoát tri-kiến, chẳng có một pháp để đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Người kiến-tánh lập cũng được mà chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ (trì trệ) chẳng ngại (trở ngại), cần dùng liền làm, cần nói liền đáp, khắp hiện hóa-thân, chẳng lìa tự tánh, tức được thần-thông tự tại.

Thầy Chí-Thành sau khi nghe Ngài dạy, lễ bái và xin nguyện được làm thị giả theo hầu Ngài sớm chiều từ đấy.

Từ khi có hai Tông phái khác nhau, hai vị Tông-chủ tuy không phân biệt chê bai, nhưng đồ chúng lại sinh lòng cạnh tranh ưa ghét; nhất là môn đồ Bắc Tông, họ đã tự lập Hòa-Thượng Thần-Tú làm Tổ thứ sáu, nhưng lại sợ người đời biết được sự truyền Áo-Bát của Ngũ-Tổ, nên sai Hành-Xương đi ám sát Lục-Tổ Huệ-Năng.

Đọc truyện về ngài Huệ Năng và ngài Thần Tú, chắc mình cũng nhận ra rằng hai ngài là đồng môn, tâm tánh nhu hòa, không cạnh tranh, không đố kỵ, mà cùng tương kính tương trợ. Tuy nhiên nhóm đệ tử bên ngài Thần Tú còn tâm ghen ghét, tôn sùng thầy mình, sinh ra ý ác, muốn giành ngôi vị kế thừa làm Tổ thứ 6 cho ngài Thần Tú nên nhiều phen muốn hãm hại ngài Huệ Năng. Lần thứ nhất là sự kiện mấy trăm người dẫn đầu là ông thượng tọa Huệ Minh, đuổi theo ngài Huệ Năng, nhưng vì không thể nhấc lên được y bát, mặc dù y bát để trên tảng đá giữa rừng, ngài Huệ Năng thoát hiểm, và cảm hoá được Huệ Minh.

Nếu để ý, chúng ta biết ngài Huệ Năng sau khi đắc pháp, là có năng lực phi thường, hiển lộ qua vài sự kiện rải rác:

  • Ngài Huệ Năng đặt Y bát trên tảng đá, và nói:

-       Y- Bát này là vật làm tin, há dùng sức mà tranh được sao?

 Quả thật, Huệ Minh không nhấc lên được.

  • Khi Chí Thành tới lén học pháp, không nói cho ai biết, ngài Huệ Năng vẫn biết.
  • Khi ngài Huệ Năng đến xin đất của Trần Á Tiên để mở rộng chùa Bảo Lâm, khoảng đất rộng bằng tấm tọa cụ để ngồi thiền. Ngài Huệ Năng cho biết tấm tọa cụ rộng lắm. Trần Á Tiên đồng ý. Bấy giờ ngài Huệ Năng trải tấm tọa cụ ra, biến thành rộng lớn cả vùng Tào Khê.
  • Về sau, nhóm người phương Bắc muốn tôn ngài Thần Tú là Tổ thứ 6 nên âm mưu sai Hành Xương giết hại ngài Huệ Năng. Ngài Huệ Năng đã biết trước. Hành Xương chém ngài Huệ Năng trong khi đang nhập định như chém vào không gian. Ngài Huệ Năng trao vàng cho Hành Xương và nói chỉ thiếu nợ vàng chứ không thiếu nợ mạng. Hành Xương được cảm hóa, thời gian lâu sau trở lại làm đệ tử ngài Huệ Năng.

Trở lại sự khác biệt về giải thích con đường tu quan trọng là : Giới- Định- Huệ. Ngài Thần Tú giảng theo kinh sách, trong ý phân chia ra 3 môn khác nhau. Ngài Huệ Năng thì giảng theo nghĩa rốt ráo, cả 3 Giới- Định- Huệ là đồng nhất trong chân tâm.

Chân tâm thì không làm quấy, là Giới tròn đủ.

Chân tâm không loạn động, là Định vững chắc.

Chân tâm không si mê, là Huệ chiếu sáng.

Vậy chỉ cần an trụ trong chân tâm, hay tự tánh, thì tròn đủ Giới- Định- Huệ.

Qua một số ít sự kiện trên đây, chúng ta cũng nhận ra, ngài Huệ Năng sáng đạo, do nhiều nhân duyên đặc biệt, và giáo hóa thích hợp cho người căn cơ sắc bén; trong khi ngài Thần Tú tu họcgiáo hóa theo đúng kinh sách, học hỏi, ứng dụng cho mình và hướng dẫn người khác thích hợp với đa số quần chúng căn cơ trung bình, còn sống trong đời, còn tham sân si, còn cả gan rượt đuổi theo để dành lại y bát, còn âm mưu thuê người giết hại Huệ Năng vv...

Kết quả của hai dòng Thiền này là:

-       Dòng Thiền “Tiệm giáo” ở phương Bắc của ngài Thần Tú, rạng rỡ, náo nhiệt một thời gian ngắn, huy hoàng, được vua chúa, triều đình, dân chúng trọng vọng, rồi sau vài đời thì mai một.

-       Dòng Thiền “Đốn Giáo” ở phương Nam của ngài Huệ Năng, khiêm nhường, âm thầm lưu truyền qua nhiều đời thiền sư sáng đạo, về sau có phương thức Công Án, rồi Thoại Đầu, làm nên Tổ Sư Thiền của Trung Hoa, cuối cùng phai mờ đi khi Tịnh độ tông xuất hiện thích hợp cho đa số căn cơ trung bình.

 

Nhận định chung những sự kiện lịch sử, chúng ta thấy hễ có xuất hiện thì có suy tàn, có thăng thì có trầm, như những lượn sóng lên xuống trên mặt biển. Biển đời cũng vậy. Tuy nhiên sóng thì có lên có xuống, chứ biển thì vẫn là biển dù lên hay xuống cũng là biển. Tinh hoa của Pháp vẫn thường hiện hữu trên thế gian, không bao giờ biến mất. Tuy vậy, không có Tăng bảo thì không ai giải thíchphổ biến ra cho đời thấy.

Các tông phái, các vị thiền sư, các phương tiện giáo hoá... là pháp hữu vi, có sanh có diệt. Còn chân lý thì vô vi, thường hằng, không sinh diệt.

Hôm nay nhân cảm niệm công đức của người xưa, mạo muội đem cái tâm buồn vui của mình mà diễn lại cảnh xưa, nếu có sai sót, xin các bậc Thiền Đức tiền bối tha thứ.

 

Thiền viện, ngày 27- 10- 2021

TN

Line 2

 Triệt Như - Suối Nguồn Hạnh Phúc - Bài 32

NAM HUỆ NĂNG- BẮC THẦN TÚ


audio-icon_thumbnail
(CLICK vào icon tam giác để nghe - CLICK vào icon 3 dấu chấm để download)
Ý kiến bạn đọc
29 Tháng Mười 20219:18 CH
Khách
Hôm nay ngày 29 tháng 10 năm 2021.
Tâm sự cùng Ni Sư.
Trước đây khi khó khăn đến tập kiên nhẫn. Nay khó khăn đến làm với Tâm rống rỗng ( không suy nghĩ) mọi việc trở nên nhẹ nhàn hơn.
Khi đã chấp nhận chân lý (Pháp) Phật thì Pháp Phật hiển hiện ngay trước mắt.
Khi tâm trạng thái rống rỗng thì nghe như thật, thấy như thật, xúc chạm như thật, nói theo cách khác
Tánh nghe,Tánh thấy, Tánh xúc chạm, xuất hiện, Tánh nhận thức trống rỗng.
Con đang thực tập tâm trống rỗng trong mọi hoàn cảnh.
Con
Như Quỳnh
29 Tháng Mười 20214:06 CH
Khách
Bất lập văn tự,
Bốn chữ này là văn tự.
Trực chỉ nhân tâm,
Có chỗ để chỉ ra chăng ?
Nhân nơi bài kệ ngài Thần Tú.
Quả sinh bài kệ ngài Huệ Năng.
Bắc Nam nương nhau mà có.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20 Tháng Năm 20232:10 CH(Xem: 1336)
Liebe Freunde, ein Kochrezept zubereiten ist nichts anderes als eine Kultivierungsübung. Um zu überleben, essen wir und praktizieren wir. Daher sind die Prinzipien für eine gute Küche quasi die Prinzipien für eine gute Praxis. Kurz gesagt, alles, was wir tun, ist eine Kultivierung. Der Lebensweg ist auch der Kultivierungsweg. Alles ist abhängig von unserem Geist. Wie er das Objekt wahrnimmt, ist es das Reich, in dem wir leben.
16 Tháng Năm 20239:48 CH(Xem: 1656)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
16 Tháng Năm 20237:21 CH(Xem: 1220)
Người “Sống Tùy Duyên Thuận Pháp” là người có tu tập theo lời Phật dạy. Một trong những pháp người đó thực hành là giữ chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hay khi làm bất cứ điều gì, cũng làm trong chánh niệm.
11 Tháng Năm 20239:41 SA(Xem: 1709)
Khóa Tu Thiền Tập Đơn Giản Để Sống An Lạc từ 14 đến 19 tháng 4 năm 2023 tại Chùa Tích Lan, Ontario.
10 Tháng Năm 20237:33 CH(Xem: 1294)
Nếu thành tựu trọn vẹn pháp chánh niệm và tỉnh giác trong bốn oai nghi, các vị Tỳ kheo xứng đáng được mọi người chắp tay cung kính, được mọi người tôn trọng, cúng dường, và được xem như có rất nhiều ruộng phước trên đời.
02 Tháng Năm 202312:58 CH(Xem: 1672)
Mười Hai Duyên Khởi, cũng còn gọi là Mười Hai Nhân Duyên, là 12 nhân duyên liên kết nhau để hợp thành một chuỗi nhân quả (P: nidāna). 12 nhân duyên như 12 mắt xích hay 12 nguyên nhân đưa đến tình trạng Khổ của con người hay tái sinh.
30 Tháng Tư 20238:57 CH(Xem: 1430)
Der Buddha sagte: "Der Tathagata ist nur ein Wegweiser, alleine musst du gehen." Das heißt, du kennst nun den Weg, gehst alleine hin, verlass dich auf niemanden, der richtige Weg ist deine Weisheit, die dich zu deinem ursprünglichen Geist zurückbringt. Im ursprünglichen Geist sind alle Phänomene Buddha-Dharmas, und die Welt ist ein reines und glückliches Nirwana.
24 Tháng Tư 20236:07 CH(Xem: 1273)
Trong thiền Phật giáo có nhiều nguyên lý tâm linh dẫn đến mục tiêu cứu cánh là chuyển hóa tâm, cân bằng thân-tâm, phát triển tuệ giác, và giải thoát.
17 Tháng Tư 202310:01 SA(Xem: 1888)
Thiền Tánh Không do Hòa Thượng Thiền Chủ Thích Thông Triệt thiết lập, kết hợp những tinh hoa rút từ tiến trình tu chứng và thành đạo của Đức Phật Thích Ca, các truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy, Phật Giáo Phát Triển, Thiền Tông và kỹ thuật Thiền, được soi sáng bởi các khám phá đương thời của khoa học não bộ và các chứng ngộ của Thầy thành một hệ thống tu thiền sâu sắc, tân thời, rõ ràng và hiệu quả.
11 Tháng Tư 20237:56 CH(Xem: 1990)
Vai trò của khoa học não bộ rất quan trọng. Đây là kiến thức thời đại. Chúng ta mượn khoa học não bộ để đối chiếu cách thực hành của chúng ta qua Pháp của Phật. Có như thế chúng ta mới chứng minh được giá trị Pháp của Phật đối với mọi trình độ căn cơ. Chúng ta biết vì sao chúng ta thực hành sai, vì sao chúng ta thực hành đúng.
01 Tháng Tư 20239:35 SA(Xem: 1515)
Wir befinden uns mitten in einem wirbelnden Wasserstrudel, würden wir darin stehen bleiben, würden wir von dem absorbiert werden und wir werden ertrinken. Wenn wir uns bewegen würden, würden wir uns auch nur in diesem wirbelnden Strudel herum drehen. Aber wie können wir denn diesem Lebenskreis entkommen?
26 Tháng Ba 20237:30 CH(Xem: 1950)
Đã không biết bao năm qua, mình khờ dại đi tìm “Qua khỏi vùng sương mù là xứ thần tiên”. Đã bao lần thấy vùng sương mù, bao lần mơ ước sẽ gặp xứ thần tiên, nào có gặp được. Tìm cầu bên ngoài, làm sao có xứ thần tiên. Cuối đời mới biết xứ thần tiên thiệt ở trong tâm của mình.
24 Tháng Ba 202310:02 CH(Xem: 2019)
Đức Phật tự nhận: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, các ông phải tự đi”. Các ông phải tự đi có nghĩa là các ông thấy ra con đường rồi, cứ tiến bước một mình, không được ỷ lại nơi ai khác, con đường chánh pháp là trí tuệ của mình sẽ đưa chúng ta trở về bản tâm. Trong bản tâm, tất cả pháp đều là Phật pháp, và thế gian là cõi Phật thanh tịnh an vui.
24 Tháng Ba 202310:18 SA(Xem: 1210)
Tài sản mà đức Phật nói đây không phải là tiền bạc, vòng vàng, châu báu, mà là tài sản về tinh thần, như niềm tin bậc giác ngộ, đạo đức, trí tuệ là những thứ tài sản không bao giờ bị đánh cắp, chiếm đoạt, trừ phi chính người sở hữu tài sản tâm linh đó tự mình phá hủy chúng. Các tài sản quý báu đó có tên gọi là: Tín tài, Giới tài, Tàm tài, Quý tài, Văn tài, Thí tài và Tuệ tài.
22 Tháng Ba 20234:26 CH(Xem: 1600)
Không phải hễ ngộ là chấm dứt hết lậu hoặc! Vì vậy, tuy hạt ngọc đã có sẵn, nhưng ta phải nỗ lực dụng công. Vô ngôn chính là phương thức làm cho Phật tánh bật ra vậy.
18 Tháng Ba 20239:58 SA(Xem: 1474)
Wir müssen in der Lage sein, zu erkennen, wann wir den Bedingungen folgen sollen und wann wir eventuell andere Bedingungen schaffen sollen, um im Einklang mit dem Universum leben zu können, denn wir sind die Schöpfer unseres Lebens, für jetzt und für die Zukunft.
15 Tháng Ba 202311:03 CH(Xem: 1954)
Thực tập phương thức làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi (phải-trái) của thế gian.
13 Tháng Ba 202311:02 SA(Xem: 1165)
Những ai hủy phạm giới pháp mà lòng không biết tàm quý, không biết ăn năn, hối hận, không biết sám hối, không chịu từ bỏ tật xấu ác quay về với con đường thiện lương đạo đức, thì hiện tại dù họ đang sống trên đời, nhưng sống trong thống khổ, vì phải chịu trả giá những tội lỗi của họ gây ra...
08 Tháng Ba 20238:24 CH(Xem: 1761)
Hôm nay, thấy hoa thủy tiên nở rộ, hoa mai cũng e ấp đón gió mát, con biết mùa xuân sang. Đã tới mùa mừng sinh nhật Thầy. Thầy đã xuất hiện nơi cõi đời nhằm mùa xuân, Thầy đã thấy con đường, cũng một mùa xuân năm đó, rồi Thầy ra đi, một đêm cuối mùa đông.
08 Tháng Ba 20238:17 CH(Xem: 1657)
Chúng ta đang ở giữa biển nước xoáy, nếu chúng ta đứng lại nơi đó thì ta sẽ bị đắm chìm cuốn hút và chết đuối. Nếu chúng ta bước tới, cũng chỉ là loanh quanh trong biển nước xoáy thôi, bước tới hay bước lùi, có khác gì đâu, rồi cũng trôi giạt bồng bềnh trong biển đời, không ra khỏi. Vậy thì làm sao đây?
05 Tháng Ba 20239:03 CH(Xem: 1420)
GEDANKE heißt in Chinesisch “mạt na”. Wahrscheinlich wurde es aus dem Wort “Manah oder Manas“ in Sanskrit übersetzt. “mạt na” (S: Manah) oder Gedanke bedeutet die Denkfähigkeit oder das Denkvermögen. In English heißt er “the capacity of thought”, “the thinking faculty”. In Pali bedeutet das Wort Mano der Geist oder der Gedanke. Im Abhidharma wird Manha gleichgesetzt mit Bewusstsein (viññāna) und Geist (citta, Bewusstseinszustand).
05 Tháng Ba 20239:01 CH(Xem: 1099)
Ngày lành tháng tốt đối với người Phật tử là ngày đẹp trời, thuận lợi cho mình và cho mọi người tham dự, có thể xem là một trong những điều kiện góp phần vào kết quả chứ không phải là yếu tố tối quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
28 Tháng Hai 20239:06 CH(Xem: 2332)
Chúng ta phải sáng suốt biết lúc nào nên tùy duyên, lúc nào phải tạo duyên tốt, phải biết mình sống có thuận pháp không, vì chính mình là chủ tạo ra cuộc đời của mình, trong bây giờ và mai sau nữa.
27 Tháng Hai 20238:19 CH(Xem: 1863)
Việc làm bếp đâu có khác việc tu tập. Làm bếp để sống, thì tu tập cũng để sống thôi. Cho nên những nguyên tắc để làm bếp tốt cũng là những nguyên tắc để tu tập tốt. Việc gì ta làm cũng là tu tập, con đường đời cũng là con đường tu, do nơi cái tâm của mình, nó thấy ra sao. Nó thấy ra sao, đó là cảnh giới mình đang sống.
25 Tháng Hai 20232:42 CH(Xem: 1736)
Trời đất vô tình, vạn vật vô tình, mà vạn vật biết sống hài hòa với hoàn cảnh tự nhiên. Chúng ta có trí, có tri giác, có tình cảm, vậy phải biết sống đời thiện lành, quan sát tâm mình từng giây phút, ý nghĩ đúng, lời nói đúng, hành động đúng...
23 Tháng Hai 20237:55 SA(Xem: 1216)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Các nhà tâm lý học ngày nay mô tả hạnh phúc là một trạng thái tâm lý tích cực của con người được thể hiện bởi cảm giác vui vẻ, thích thú, hài lòng trước những đầy đủ về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nó khiến bản thân người ta cảm thấy yêu đời hơn.
18 Tháng Hai 20232:24 CH(Xem: 1403)
Das Naturgesetz regelt alle Phänomene. Es ist gleichzeitig ihr Evolutions- und Entwicklungsgesetz. Es gründet das Universum, regelt den Ablauf des Universums, schützt und pflegt die Existenz des Universums. Die Welt ist offenbar eine wunderbare Harmonie von Idappaccayatā.
14 Tháng Hai 20233:56 CH(Xem: 1542)
Đọc tụng bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” chúng ta học theo tinh thần từ bi, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của chư Phật, chư Bồ tát. Kinh nhắc nhở chúng ta tám điều quan trọng cần phải học hỏi tu tập. Đó là phải luôn quán xét vạn pháp trong đó có tấm thân ngũ uẩn của con người không thực chất tính nên nó vô thường, khổ, không, vô ngã...
13 Tháng Hai 202310:37 SA(Xem: 1563)
Mạt na hay Ý có nghĩa năng lực của tư tưởng hay năng lực tư duy, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng, Trong tiếng Pāli, từ mano hay Ý có nghĩa tâm hay tư tưởng tương đương trong tiếng Anh là “mind” hay “thought”. Trong A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma), mạt na dùng để chỉ đồng nghĩa với THỨC (viññāna: consciousness) và TÂM
05 Tháng Hai 20236:14 CH(Xem: 1726)
Tánh giác không từ đâu đến. Nó không nằm trong quy luật duyên sinh của hiện tượng. Ta không thể khám phá nó khởi ra từ đâu khi có sự xuất hiện của con người trên quả đất.
28 Tháng Giêng 20237:39 SA(Xem: 1358)
Realität ist nicht 100%ig echt aber auch nicht 100%ig illusorisch. Oder „Das Gerade jetzt“ existiert, ist „echt“ und gleichzeitig „illusorisch“. Oder In der Realität ist eine Illusion vorhanden und in der Illusion existiert eine Realität.
25 Tháng Giêng 202311:14 SA(Xem: 1871)
Định luật Y Duyên Tánh vận hành tất cả thế gian. Nó cũng là định luật biến hóa và phát triển, là sức sống mãnh liệt, đã thành lập vũ trụ, điều hành vũ trụ, và bảo vệ duy trì sức sống của vạn vật. Thế gian biểu hiện sự hài hòa tuyệt vời theo sự biến hóa khách quan của “Y Duyên Tánh”. Vậy, các bạn thân ơi, đây có phải là một bức tranh puzzle tuyệt vời không?
24 Tháng Giêng 20233:16 CH(Xem: 1545)
Chỉ có người thực sự bước vào dòng Thánh mới kinh nghiệm được thọ thanh tịnh. Người còn nhiều dính mắc không bao giờ kinh nghiệm được nhận thức ngoài cảm giác.
18 Tháng Giêng 20237:43 CH(Xem: 2181)
Đất trời quê hương đang vào xuân, mong gởi một món quà nhỏ tặng cho bạn tri âm, mùa xuân trong tâm mình.
18 Tháng Giêng 20237:51 SA(Xem: 1500)
Der Buddhismus betrachtet die „Geburt“ nicht als Beginn eines neuen Lebens sondern die Geburt beginnt bereits mit dem Tod, dann folgt eine Rückkehr und eine erneute Geburt. Diesen Zyklus: Geburt und Tod, Werden und Vergehen, nennt man im Buddhismus den Daseinskreislauf (Samsara) und Alter ist ein Teil dieses Lebenskreislaufs.
17 Tháng Giêng 20231:21 CH(Xem: 1351)
Cái gì được nhận ra đầu tiên trong một sát na, và nhận rõ cuối cùng qua những chuỗi sát na tiếp theo, là đối tượng của nhận thức.
10 Tháng Giêng 20231:01 CH(Xem: 1482)
Thực tại là “giống như Thực” , đồng thời là “giống như Huyễn”. Đó là Trung Đạo. Nói cách khác nữa: Thực tại là không phải hoàn toàn Thực, cũng không phải hoàn toàn Huyễn. Cũng có thể nói: “Cái Đang là” vừa là “Thực” vừa là “Huyễn”.
69,256