HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Thích Thông Triệt: Luận giảng số 3: Ý NGHĨA THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI

05 Tháng Tư 20246:46 CH(Xem: 282)

Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về
THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI
của HT Thích Thông Triệt (2014)
Luận giảng
số 3
 Ý NGHĨA THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI


Bia Sách2_ThienVaKienThucThoiDai_TueNguyen for WEB 4x6

 

Mở đầu

Trước khi đi vào chi tiết của những phần Luận Giảng Vấn Đáp, tuần tự chúng tôi trình bày hai chủ đề lớn mà trọng tâm của cuốn sách này đang đề cập, đó là “Thiền và Kiến Thức Thời Đại.”

Trước hết, chúng tôi trình bày ý nghĩa của Thiền, và đây là Thiền Phật Giáo. Đó là để tránh tình trạng mập mờ sử dụng thuật ngữ Thiền trong sinh hoạt tôn giáo hay sinh hoạt ngoài thế gian hiện nay. Thí dụ: Thiền Yoga, Thiền xuất hồn. Hơn nữa, về thuật ngữ Thiền hiện nay lại có nhiều hệ thống trong Phật giáo cũng đang sử dụng thuật ngữ Thiền trong bộ môn tu tập của mình. Thí dụ: Thiền Tổ Sư, Thiền Đại Thừa, Thiền Tông, Thiền Vipassanā, Thiền Mật, Thiền Tịnh, Thiền Công Án, Thiền Thoại Đầu, v.v… Cho nên, ở đây chúng tôi muốn nêu rõ lên Thiền mà chúng tôi đương áp dụng là thiền gì ?

Xin thưa, Thiền mà chúng tôi sẽ dẫn giải ra đây là Thiền Nguyên Thủy, đó là Thiền khi Đức Phật còn tại thế đến khoảng 100 năm sau Đức Phật nhập diệt. Nói chung, đây là loại Thiền trước thời kỳ Phật giáo phân tán ra 2 bộ phái: Trưởng Lão bộĐại Chúng bộ.

Có nghĩa chúng tôi sẽ trích dẫn những bài Kinh liên hệ đến sự thực hành Thiền mà qua đó đức Phật Thích Ca đã tu chứngthành đạo. Rồi sau đó Ngài giảng dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia về những điều mà Ngài đã thực sự chứng ngộ.

Về trọng tâm giảng dạy của đức Phật, Ngài đã dựa vào nguyên tắc “Đối cơ thuyết pháp.” Ngài đã chia chúng sanh ra ba trình độ căn cơ: thượng căn, trung căn, và hạ căn. Với trình độ căn cơ bậc thượng, ngài áp dụng Chân đế, đây là giáo lý ngoài lời. Còn với trình độ căn cơ bậc trung và bậc hạ, Ngài áp dụng phương pháp Tục đế, đây là giáo lý có lời.

Do đó, ở đây chúng tôi sẽ giảng luận những cốt lõi giáo pháp của Ngài một cách đơn giản, dễ hiểu, và phổ thông bằng cách đối chiếu với khoa học, để tất cả chúng ta đều có thể nắm bắt được.

Đặc biệt nhất, về trình độ chứng ngộ thì Ngài khai triển 4 năng lực qua 4 Tánh: (1) Tánh Thấy, (2) Tánh Nghe, (3) Tánh Xúc chạm, (4) Tánh Nhận thức biết. Ba tánh đầu Ngài xếp vào loại Tâm bậc Thánh, riêng về tánh thứ Tư, Ngài xếp vào tâm Tathā.

Nói chung, về thuật ngữ Thiền, chúng tôi sẽ dựa vào lời dạy của đức Phật Thích Ca trong hệ Kinh Nikāya để dẫn giải. Đôi khi chúng tôixen vào hình thức vấn - đáp để làm cho vấn đề được rõ ràng hơn.

CỐT LÕI CỦA THIỀN PHẬT GIÁO

Gốc nguồn Thiền

Mặc dù hiện nay Thiền đã trở thành một môn tu tập được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới, xét về nguồn gốc, Thiền lại xuất nguyên từ Ấn Độ. Tại Ấn Độ có nhiều loại Thiền, nhưng cơ bản chỉ có hai loại Thiền chính yếu là Thiền Yoga và Thiền Phật giáo. Thiền Yoga do ngài Patañjali thiết lập trước thời Phật khoảng trên 500 năm. Thiền Phật giáo do đức Phật Thích Ca thiết lập, cách đây trên 2500 năm.

Ở đây, chúng ta học Thiền Phật giáo, nên cần đào sâu vào Thiền Phật giáo.

Thiền là gì ?

Để có ý niệm khái quát thuật ngữ Thiền theo quan điểm Phật giáo, trước hết ta đi tìm nghĩa gốc của danh từ Thiền trong Phật giáo tại Ấn Độ. Bởi vì trên nguyên tắc, Thiền có gốc rể sâu trong tâm linh Ấn Độ. Trong Phật giáo có 2 từ được dùng để chỉ về Thiền:

1. Từ Jhāna. Đây là tiếng Pāli—ngôn ngữ được dùng trong văn hệ Nguyên Thủy. Từ này có nghĩa sự trầm tư mặc tưởng, sự tập trung tâm, sự hấp thu tâm (vào đối tượng).

Từ “Jhāna” có ngữ căn là “Jhāyati,” có nghĩa trầm ngâm (to contemplate), hay “trầm tư mặc tưởng” (to meditate) về chủ đề nào đó. Trong nghĩa này, “Jhāna” liên hệ đến những vấn đề Quán. Ngoài ra nó cũng liên hệ đến động từ jhāpeti, có nghĩa thiêu đốt hay tiêu diệt những uế nhiễm (lậu hoặc) của tâm làm cản trở phát triển sự an tịnh (peace), trầm lặng (serenity), tuệ trí (insight). Nhưng muốn “thiêu đốt” hay “tiêu diệt” những lậu hoặc (uế nhiễm) của tâm (the mental defilements), Jhāna đòi hỏi người thực hành phải có Định (Samādhi). Vì chỉ có Định mới có điều kiện thiêu đốt hay tiêu diệt uế nhiễm của tâm.

Chủ đích của môn tu này, Đức Phật muốn giúp người tu trước hết là kinh nghiệm về niệm Biết (pajānāti).

2. Từ Dhyāna. Đây là tiếng Sanskrit—ngôn ngữ được dùng trong văn hệ Phật Giáo Phát Triển. Từ này có nghĩa Trầm tư mặc tưởng (meditation), sự trầm ngâm (contemplation), sự phản tỉnh, phản ánh (reflection), đặc biệt chỉ sự soi rọi lại mình hay soi rọi lại một đề tài tu tập nào đó; trạng thái tập trung tâm (the state of mental concentration) vào đối tượng để đồng nhất hóa ý niệm ngã vào đối tượng thành một thể thống nhất. Lúc bấy giờ chỉ tồn tại duy nhất dòng Biết Không Lời (the stream of Wordless Awareness) mà không có mặt Ý căn suy nghĩ, Ý thức phân biệt, và Trí năng biện luận. Ngữ căn của dhyāna là động từ dhyai, có nghĩa suy nghĩ về (to think of); trầm ngâm (to contemplate); trầm tư mặc tưởng về (to meditate on); hồi tưởng (to recollect) điều gì.

Cả hai từ “Jhāna” và “Dhyāna” chỉ cho tên một pháp tu được ứng dụng trong 4 oai nghi, đặc biệt là tư thế ngồi. Môn tu này xuất nguyên từ Ấn Độ, do đức Phật Thích Ca thiết lập. Môn tu này liên hệ đến Quán, Chỉ, Định, và Huệ. Chủ đích của pháp tu này giúp người thực hành đạt được 4 tiến trình Biết, tỉnh thức, ngộ, nội chứng, hoặc kiến tánh, hằng sống với tánh giác, và tự tại, hay giải thoát.

Thoạt đầu người Trung Hoa dịch âm từ “Jhāna,” hay “Dhyāna” ra “Ch’an-na.” Các nhà sư Việt Nam lại dịch âm từ Ch’an-na thành “Thiền Na.” Đến khi người Trung Hoa bỏ vần “na,” còn lại “Ch’an,” người Việt Nam cũng bỏ theo. Cuối cùng còn lại chữ “Thiền.” Người Nhật dịch âm theo người Trung Hoa từ chữ “Ch’an” ra “Zen.” Trong khi đó, các học giả Tây phương dịch nghĩa “Jhāna,” và “Dhyāna” là “Meditation.”

Từ hơn nửa thế kỷ trước đây, hai từ ZEN và MEDITATION được giới nghiên cứu Thiền Tây phương dùng để chỉ cho “Jhāna” hay “Dhyāna” tức Thiền. Trên căn bản, từ Meditation không lột hết ý nghĩa của hai từ gốc là “Jhāna,” và “Dhyāna.” Vì mục tiêu gần nhất của “Jhāna” hay “Dhyāna” là giúp người thực hành đạt được Định, mà Định được đặt trên nền tảng tâm thuần nhất, chứ không phải ngồi trầm ngâm suy tưởng (meditation), chơi trò chơi cút-bắt với niệm, hay xoay ánh sáng trí năng vào bên trong mình (reflection) như lúc mới bắt đầu tập sự tu. Còn mục tiêu xa nhất của “Jhāna” hay “Dhyāna” là kiến tánh, ngộ đạo, nội chứng, tự tại hay giải thoát. Do đó, nhiều thiền gia Tây phương cận đại khi đã kinh nghiệm được tác dụng của Thiền trên thân, tâm, và trí tuệ tâm linh, các vị đó dùng từ Zen hay Zen Buddhism hoặc Buddhist Zen để dịch 2 từ “Jhāna” và “Dhyāna” thay vì dùng Meditation như trước kia.

Trên thực tế, Jhāna hay Dhyāna là danh từ chuyên môn dùng để chỉ phương thức thực hành trong 4 tư thế đi, đứng, nằm, ngồi trong 4 hệ Thiền Phật giáo: Nguyên Thủy, Vipassanā, Phát Triển, và Thiền Tông. Nếu nghiêm chỉnh ứng dụng các pháp trong Thiền, ta sẽ nhận ra rằng Thiền có khả năng giúp con người đạt được:

1. chuyển hóa nội tâm,
2. điều chỉnh ốm đau, bệnh tật của thân,
3. cân bằng thân-tâm,
4. phát triển trí tuệ tâm linh,
5. tự tại trong cuộc sống hiện thựctự tại trước khi từ giả cõi đời, hay giải thoát tối hậu.

Ngày nay, Jhāna hay Dhyāna đã đi sâu vào đời sống của đông đảo quần chúngtinh thần tiến bộ trên các quốc gia phát triển Tây phương, và các quốc giatruyền thống văn hóa Đông phương. Do đó, dựa theo tác dụng của nó, Thiền được hiểu theo một nghĩa rộng rãi hơn. Nó không những là môn tu Thở, tu Chỉ, tu Quán, mà còn là môn tu Định, và tu Huệ. Nó không những chỉ giúp cho con người điều chỉnh những rối loạn của thân, rối loạn của tâm mà còn cân bằng được thân-tâm, và giúp cho sự phát triển tuệ trí đến mức cao hơn. Nó không những làm cho quán tính suy luận trí năng, suy nghĩ bừa bãi, và ý thức phân biệt bị triệt tiêu, hơn nữa còn làm cho tánh giác hiển lộ để trở thành một năng lượng biết thường trực trong 4 oai nghi của thiền gia. Nó không những làm cho tánh giác trở thành nhân chứng giữa hai nhóm ý thứcgiác quan, mà còn tạo ra tiến trình xúc tác (catalystical process) làm cho Phật tánh được triển khai. Bởi vì Phật tánh tuy có sẵn trong mỗi chúng sanh, nhưng nếu ý thức, trí năngsuy nghĩ cứ có mặt thường trực, Phật tánh kia cũng đành bị mai một

Vì thế, nói theo Thiền sư Thích Thanh Từ, “Thiền là một khoa học tâm linh.” Khoa học này khác hơn khoa học thế gian vì nó đi vào chiều sâu của tánh giác để khai thác tiềm năng ngộ vốn tiềm tàng bên trong 3 cơ chế của tánh giác, hoặc chiều sâu của Phật tánh để khai thác tiềm năng giác ngộ trong cơ chế của Phật tánh; còn khoa học thế gian thì đi vào chiều sâu của ý thức, ý căn, và trí năng để khai thác trí hiểu biết theo thế gian. Với trí hiểu biết này, con người luôn luôn đối diện với hai bên, với dính mắc, và chấp trước. Phiền não và khổ đau, tranh chấp và thù hận không làm sao chấm dứt trong tâm con người.

Với trí hiểu biết của Phật tánh, tâm con người sẽ đạt được giải thoát tối hậu; phiền não và khổ đau, tranh chấp và thù hận sẽ tự chấm dứt lấy. Tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả sẽ luôn luôn biểu lộ trong ta.

Truyền thống cơ bản của Thiền: Ngộ và nội chứng

Trải qua thời gian dài 6 năm, đức Phật đã lần lượt tiến hành những giai đoạn gian khổ tu tập với chủ đích tìm ra cách chấm dứt:

 những nhân tố đưa đến phiền não, khổ đau, luân hồi sanh tử triền miên,
 và tìm ra cách đạt được cái vô sanh, nhưng Ngài bị bế tắc.

Cuối cùng, Ngài nhớ lại phương pháp Thở đặc biệt mà Ngài đã áp dụng từ lúc còn là cậu thiếu niên trên 10 tuổi, khi vua cha của Ngài làm Lễ Hạ Điền. Đấy là lúc Ngài ngồi thiền dưới cội cây mận đỏ (jambu), thực hành pháp Thở. Ngài đã đạt được trạng thái thở tự động hay tịnh tức, đưa đến nội tâm Ngài hoàn toàn an tịnh. Ngài ôn lại kinh nghiệm cũ, rồi từng bước áp dụng theo phương thức Thở. Kết quả, Ngài thành tựu an tịnh nội tâm vững chắc. Tuy tai vẫn nghe những tiếng động trong môi trường chung quanh, mắt vẫn thấy đối tượng trước mặt, nội tâm Ngài vẫn không dính mắc ngoại duyên. Ngài cảm thấy vui tươi, khoan khoái. Đây là trạng thái hỷ lạc, thành quả đầu tiên Ngài đạt được thông qua pháp Biết Hơi Thở Ra Vào. Tiếp theo, Ngài tuần tự tiến sâu vào từng Định thứ hai là chấm dứt suy tư, ngẫm nghĩtư duy biện luận. Cuối cùng Ngài vượt qua từng Định Xả và an trú trong Chánh Định. Sau đó, Ngài đã ngộ (nhận ra rõ ràng-realized) nhân tố đưa đến tái sinh triền miênÁi Dục (craving desire) trong đêm cuối của tuần lễ thứ tư. Đây là sự ngộ (realization) đầu tiên của Ngài. Không dừng tại chặng này, Ngài tiếp tục an trú trong Chánh Định (còn gọi là Định Bất động, hay Kim Cang Định) trong tuần lễ thứ tám ngồi dưới cội Bồ đề, Ngài nhận ra thêm thực tướng (hay tinh túy) và những bản thể sâu sắc khác trên thế gian mà từ trước đến nay chưa bao giờ có ai nhận ra rõ ràng như thế. Sau cùng, Ngài đạt được giác ngộ (enlightenment) tối hậu: Vô thượng Chánh đẳng chánh giác (perfect universal enlightenment). Đến đây, Ngài chứng nghiệm những biến đổi trên thân, tâm, và trí tuệ tâm linh mà từ trước đến nay Ngài chưa hề kinh nghiệm. Đây là sự nội chứng (inner experience) từ bên trong thân, tâm, và trí tuệ tâm linh của Ngài.

thương xót chúng sinh còn đang mê lầmsay đắm trong ảo vọng phù du của hiện tượng thế gian; hụp lặn trong biển sanh tử; phiền não và khổ đau triền miên, đức Phật thấy cần đi giáo hóa để cứu độ chúng sinh. Trước khi đi giáo hóa, Ngài thiết lập lại những tiến trình ngộ đạo (the realization process of the Path) và sự tự chứng (self-experience) của Ngài thành một hệ thống thực hành thứ lớp.

Qua sự thành côngthiết lập phương thức giáo hóa Thiền của đức Phật, cho thấy, sự hình thành Thiền Phật giáo dựa trên hai nguyên tắc cơ bản: NGỘ và TỰ CHỨNG hay NỘI CHỨNG; chứ không dựa trên nguyên tắc suy nghĩ hay suy luận trí năng để thiết lập như các hệ thống triết học Tây phương. Vì thế, dù trải qua bao nhiêu biến thiênthăng trầm của dòng đời, trên 25 thế kỷ qua, Thiền Phật giáo vẫn tồn tại. Đây là giá trị cơ bản có tính cách truyền thống của Thiền Phật giáo.

Cho nên, nếu dùng suy nghĩ để thiết lập Thiền, Thiền này sẽ không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của con người trong từng thời đại. Trái lại, nó chỉ có thể tồn tại trong chừng mực thời gian nào đó, rồi sau đó bị đào thải ngay. Vì suy nghĩ là sản phẩm suy luận chủ quan của tự ngã. Sự suy luận này luôn luôn gắn liền với những dữ kiện quá khứ—nó là những mớ kiến thức tản mạn đã được biết và đã được huân tập trong ký ức hay đã được ghi trong sách vở. Nó không phải là cái biết lập tức hay ngay tức khắc. Cho nên, nó chỉ có khả năng phù hợp với tâm trạng quần chúng trong thời gian nào đó; đến khi nó không còn thích hợp nữa, quần chúng sẽ không thừa nhận nó.

Trong lúc đó, ngộ đạo là sản phẩm được kiến giải bằng trực giáclập tức của Phật tánh, thuộc cơ chế Precuneus. Nó là cái chưa biết, bây giờ được biết rõ, nhận rõ như sờ sờ trước mặt. Tác dụng của nó là điều chỉnh thân, chuyển hóa tâm, và làm bật ra huệ siêu vượt. Do đó, nó vẫn thích hợp với con người trong từng thời đại. Vì con người trong từng thời đại đều cần nó.

Trên căn bản, ngộ đạo không phải là sản phẩm của tự ngã mà là của tánh giác và Phật tánh. Nó được xem như “chất xúc tác” (catalyst) hay tác nhân kích thích tạo ra nội chứng. Nội chứng sẽ không thể nào xảy ra, nếu không có chất xúc tác của ngộ. Càng ngộ nhiều, nội chứng càng mở rộng và sâu thêm.

Thế nào là nội chứng ?

Nội chứng là những kinh nghiệm mà người thực hành đúng theo phương pháp, theo kỹ thuật cảm nhận được những sự chuyển biến (transmutation) hay chuyển hóa (transformation) như thế nào về tâm, thân và trí tuệ tâm linh của chính vị đó. Bất cứ người hành thiền nào nếu đã có một lần ngộ, dù ngộ “nhỏ” cũng có kinh nghiệm sự chuyển hóa thân, tâm, và trí tuệ.

Chính vì thế, ngộ mới được xem là tác nhân tạo ra nội chứng. Và không suy nghĩ điều kiện đủ của ngộ. Lý do là với điều kiện không suy nghĩ, tâm ngôn sẽ không có mặt, ngay đó tánh giác liền có mặt. Nếu cứ suy nghĩ triền miên về chủ đề nào đó, tâm ngôn sẽ không bao giờ ngưng động. Qua đó tánh giác sẽ không bao giờ có mặt được. Do đó, mục tiêu chính yếu mà Thiền nhắm tới là KHÔNG SUY NGHĨ. Một khi ta thành tựu không suy nghĩ, tức khắc tánh giác liền có mặt. Đó là kỹ thuật đánh thức tánh giác hay kỹ thuật ngộ. Trên thực tế, không phải tánh giác còn mê ngủ hay bị vô minh che lấp, mà chỉ vì ta—tự ngã—cứ thường xuyên có mặt để suy nghĩ mông lung, vu vơ, lăng xăng (bừa bãi), nên cái biết không lời, thường hằng, và đồng bộ không làm sao có mặt được. Một khi ta đã thực sự đánh thức được cơ chế tánh giác, làm cho tánh giác có mặt trong những thời thiền khi: đi, đứng, ngồi, hay nằm trong thời gian ngắn (vài phút) hay dài hơn, và liên tục trong nhiều thời thiền như vậy, ta sẽ có những kinh nghiệm nội chứng trên tâm, thân và trí tuệ tâm linh.

Về tâm, ta bắt đầu nhận ra:

 Không còn những thói hư, tật xấu từ trước ta đã bị vướng mắc hay bị tiêm nhiễm, như bài bạc, hút thuốc, uống rượu, nói dối…
 Những mức độ đam mê, dính mắc, say đắm ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy) mà từ trước đã ăn sâu trong tâm thức ta, tự nhiên không còn là những động cơ hùng mạnh trong tâm ta nữa.
 Những bệnh chấp ngã, chấp pháp, chấp kiến mà từ trước ta không thể nào bỏ được, bây giờ tự nhiên không còn xuất hiện trong tâm ta, khi ta chạm trán với xã hội hay với những người chung quanh ta.

Về thân, ta bắt đầu có những chuyển đổi rõ rệt:

 Từ da mặt u tối, xám xịt, buồn bã, bây giờ thần sắc trở nên tươi nhuận, sáng sủa, vui tươi, hồn nhiên.
 Những thái độ cử chỉ được biểu lộ ra ngoài chân, tay, đầu, mặt, ánh mắt, môi miệng; những nét cau có, quạu quọ; nhăn mặt, nhíu mày; những nụ cười hồn nhiên thường xuyên vắng bóng trên đôi môi; nhìn ngang, liếc dọc, nhìn ngó láo liên; run đùi, nhịp cẳng, quơ tay, múa chân; ba hoa, dành nói; tự cao, tự đại, tự nhiên biến đổi trong phong thái (behavior) đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng của ta.
 Những cách đi đứng (deportments) hối hả, lăng xăng vồn vã; nằm ngồi không được trang nghiêm; những lối xử sự (demeanors) thiếu lễ độ, nhã nhặn, thiếu lịch sự, thiếu tế nhị, thiếu thông cảm, thiếu tha thứ; những hạnh sống (conducts) không được trong sạch, thiếu đạo đức, phạm giới luật, từ lần chuyển biến từ trong tâm ta mà ta không hay biết.
Ngoài ra, trên mặt thể chất, thân ta cũng trở nên khỏe mạnh. Nếu trước kia ta bị một trong những thứ bệnh tâm thể như hen suyễn, loét bao tử, rối loạn nhịp tim, huyết áp cao hoặc thấp v.v..., ta cũng có khả năng tự chữa lấy.

 Về trí tuệ tâm linh, ta sẽ nhận ra rõ lời dạy của Phật và chư Tổ trong Kinh hay Luận. Đặc biệt nhất, đối với vạn pháp, ta sẽ có cái thấy biết như thật: vật thế nào, ta thấy và biết y như thế đó mà không có sự biện luận trí năng hay tư duy nhị nguyên, hoặc phân biệt của ý thức. Đây là sự nhận biết bằng trực giác và phân tích của tánh giác.

Nếu kiên trì thực hành làm cho tánh giác thường xuyên có mặt trong các tư thế thực hành thiền, đặc biệt là thế ngồi, một ngày nào đó ta sẽ có kinh nghiêm thế nào là huệ tự phát.

Đây là đặc tính cơ bản của Thiền. Là người bắt đầu bước chân vào Thiền, ta phải chú trọng đến điểm này. Đây là con đường đi thẳng. Điều này cho biết: Thiền không chủ trương đi quanh co hay chơi trò chơi cút-bắt với niệm; không lý luận phù phiếm, mông lung; trái lại chủ trương đi thẳng vào Tánh giác (Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Xúc chạm) và Phật tánh (Tánh Nhận Thức biết) hay cơ chế Precuneus.

Mục tiêu chủ yếu của Thiền

Qua hướng giáo hóa của đức Phật, cho thấy mục tiêu của Thiền là phục vụ con người. Đây là con người còn dính mắc vào 4 lớp vỏ trần tục, mà đức Phật thường gọi là 4 lớp lậu hoặc.

Lậu hoặcthuật ngữ được người Trung Hoa dịch nghĩa từ tiếng Pāli là Āsava. Nó có nghĩa “sự tiết ra-secretion,” “sự chảy ra-outflow.” Nghĩa chính của từ Āsava là “những ý nghĩ làm nhiễm độc tâm” hay “chất say-intoxicant,” “sự ghiền, nghiện-addiction,” “điều ô uế-taint,” “sự mê đắm-infatuation,” “sự làm nhơ bẩn-defilement,” “sự đồi bại-corruption,” “tính ham mê-mania.” Nó gồm vô minh lậu, dục lậu, hữu lậu, và kiến lậu. Với khả năng của Thiền, nếu nghiêm chỉnh ứng dụng từng pháp, kết quả ta sẽ có cơ hội đào thải từng lớp lậu hoặc ra khỏi mạng lưới nghiệp thức. Chính 4 lớp vỏ lậu hoặc này là nhân tố của tái sinh, hạnh phúc nhất thời, an lạc nhất thời, mà trong đó phiền não, khổ đau, ta thán, hận thù, tranh chấp, tham lam, sân hận, si mê triền miên. Một khi nó được đào thải, tâm ta sẽ được chuyển hóa, sẽ được ổn định vững chắc; thân ta sẽ được khỏe mạnh; trí tuệ sẽ được mở rộng, trong sáng; và những đam mê, ghiền nghiện, say đắm, mê thích dục lạc thế gian sẽ không còn gây chướng ngại trong cuộc sống hằng ngày của ta. Niềm an lạc, hạnh phúc lúc bấy giờ mới thật sự có mặt thường trực trong cuộc sống hằng ngày của ta và gia đình ta.

Đặc tính cơ bản của Thiền

Khi thực sự sống với Thiền (chứ không phải thiền theo kiểu tài tử, hay hùa theo phong trào), ta sẽ có kinh nghiệm nội chứng. Lúc bấy giờ ta sẽ nhận ra rằng Thiền có những khả năng chuyển biến bản chất thân, bản chất tâm, bản chất ý thức, và thăng hoa trí huệ, mà không cần thông qua giáo điều luân lý hay thuộc làu băng giảng Thiền, cũng không cần những nghi thức tôn giáo rườm rà, như tụng kinh, gõ mõ, trì chú, lần tràng hạt, lễ nghi phức tạp… Trái lại, thực hành Thiền chỉ thông qua phương thức phản xạ giác quanđánh thức tánh giác hay đánh thức một trong ba cơ chế của tánh giác (tánh Nghe, tánh Thấy, tánh Xúc chạm) và phương thức phản xạ thụ độngđánh thức tánh Nhận thức biết. Đây là đặc tính cơ bản của Thiền Phật giáo. Xa rời điểm mấu chốt này, ta sẽ không bao giờ có kinh nghiệm ngộ đạonội chứng. Chính vì thế, Thiền mới chủ trương đi thẳng mà không đi vòng vo; chỉ thẳng mà không chỉ quanh co; tìm an lạc đích thực hơn là an lạc tạm bợ nhất thời.

Chướng ngại cơ bản của Thiền

Trên nguyên tắc, người thực hành Thiền gặp rất nhiều chướng ngại, trong đó chướng ngại hàng đầu của Thiền là NGÔN HÀNH, gồm Tầm (Vitakka) và Tứ (Vicāra). Tầm là lời nói thầm trong tâm hay tâm ngôn, hoặc sự nói thầm trong não. Tứ là sự đối thoại thầm lặng bên trong não. Bao lâu ta ngồi thiền mà trong đầu còn nói thầm, còn đối thoại thầm lặng, bấy lâu Chỉ hay Định vẫn không làm sao có mặt. Và như thế, dù ngồi mòn bao nhiêu gối thiền hay trải qua bao nhiêu năm thực hành Thiền, cuối cùng ta cũng không làm sao đạt được mục tiêu an lạc, thảnh thơi, và phát huy trí tuệ tâm linh. Đây là điểm then chốt mà người mới bước chân vào Thiền cần nắm vững. Nếu không nắm vững, ta sẽ uổng phi một đời tu.

Tóm kết

Bài Luận giảng này cho chúng ta biết rằng: điểm quan trọng bậc nhất của Thiền chỉlàm chủ tâm ngôn. Không làm chủ được tâm ngôn, dù chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, đường Thiền của ta sẽ đến nơi bế tắc. Tầm và Tứ vẫn thường xuyên xuất hiện. Nếu tiếp tục tu, cuối cùng ta chi là người mang danh nghĩa tu Thiền, chứ thực sự ta không bao giờ kinh nghiệm được kết quả của Thiền là thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát.

Tánh giác thực sự có mặt, khi tâm ngôn trở nên yên lặng. Tâm ngôn còn dao động, vọng tưởng không bao giờ yên lặng. Mong rằng quý vị nắm được cốt lõi ý nghĩa của bài Luận giảng Thiền, và tiếp theo chúng tôi luận giảng về kiến thức thời đại.

 

Ý nghĩa kiến thức thời đại

Bây giờ trình bày về chủ đề Kiến thức thời đại, để cho phần này được rõ ràng hơn, chúng tôi giả lập như có người hỏi:

Hỏi: - Xin Thầy cho biết Kiến thức thời đạikiến thức gì ?

Đáp: - Kiến thức thời đạikiến thức liên hệ đến thời đại chúng ta đương sống.

Hỏi: - Vậy thời đại chúng ta đương sống là thời đại gì ?

Đáp: - Xin trả lời ngắn gọn, thời đại chúng ta đương sống là thời đại “khoa học kỹ thuật.” Điều này có nghĩa tất cả những lãnh vực liên hệ đến cuộc sống của chúng ta đều nằm trong lãnh vực khoa học kỹ thuật. Thí dụ như: về văn hóa, xã hội, an ninh, y tế, não học, thần kinh học, Thiền học, Phật học, v.v…

Về lịch sử

Khoa học và kỹ thuật vốn đã xuất hiện trong nền văn minh của nhân loại. Qua đó, con người càng sống càng tiến bộ hơn.

Khoa học là một ngành đã và đang phát triển tại các quốc giatrình độ văn minh, có nền văn hóa cao.

Trong Phật giáo Phát triển có chủ trương Ngũ Minh: Nội minh, Nhân minh, Thanh minh, Công xảo minh, và Y phương minh.

Hỏi: - Xin Thầy giải thích thêm về Ngũ Minh ?

Đáp: - Đây là truyền thống của Phật giáo, chủ trương 1 vị đi hoằng hóa cần được trang bị Ngũ minh. Đó là 5 loại kiến thức:

Nội minh: kiến thức về kinh điển Phật học.
Nhân minh: kiến thức về lý luận.
Thanh minh: kiến thức về ngôn ngữ, văn chương.
Công xảo minh: kiến thức về công nghệ, kỹ thuật.
Y phương minh: kiến thức về y học và dược học.

Hỏi: - Thưa Thầy còn kỹ thuật là gì ?

Đáp: - Kỹ thuật là một bộ môn đòi hỏi con người cần phải có 3 nguyên tắc căn bản:

a. Có trình độ văn hóa trung bình để tiếp thu những thông tin liên hệ đến ngành nghề mà con người đang tập trung tâm trí để lo giải quyết.
b. Có tính sáng tạo.
c. Có sáng kiến mới.

Hỏi: - Thưa Thầy, trong Thiền có cần đến kiến thức về khoa học hay không ?

Đáp: - Rất cần. Trong sự thực hành Thiền, chúng ta cần trang bị kiến thức về khoa học, ở đây là khoa học về não bộ.

Hỏi: - Thưa Thầy tại sao người thực hành Thiền cần biết rõ về não bộ ?

Đáp: - Vì khi chúng ta thực hành Thiền, tất cả mọi tín hiệu đều tác động vào não bộ. Chúng ta cần biết rõ vị trí, chức năngvai trò của các cơ chế trong não bộ để biết khi nào chúng ta thực hành đúng hay sai ? Đúng thì kết quả như thế nào, sai thì kết quả ra sao ?

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 20242:20 CH(Xem: 645)
Vậy thì “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” có thể là muôn pháp đều về tâm, còn nếu thắc mắc: tâm về chỗ nào? Thì ăn gậy là phải rồi. Bây giờ mới hiểu tại sao chư Thiền Đức ngày xưa ra đi không cần lưu lại dấu vết mà hê thống kinh Bát nhã ba la mật lại viết tràng giang đại hải về Không, Huyễn và Chân Như. Có phải vì chỗ đó ngoài ngôn ngữ, còn nếu dùng ngôn ngữ thì nói hoài cũng không xong?
20 Tháng Tư 20246:38 SA(Xem: 124)
Also durch die Sinnesorgane nehmen wir also, „was gerade ist“, eine reale Sache wahr, das heißt, wir nehmen es wie eine reale Sache, obwohl es nicht echt ist. Ebenso ist ihre Stabilität, ihre Dauerhaftigkeit eine „Illusion“... Das Reale besteht darin, Phänomene durch die Sinnesorgane wahrzunehmen und die Illusion besteht darin, die Essenz eines Phänomens durch eine Weisheit zu verstehen.
17 Tháng Tư 20242:27 CH(Xem: 285)
Tu tập theo đạo Phật không phải để sở hữu được điều gì, mà thực ra là để buông xả không bám víu với bất kỳ những gì ở trên đời... mà chỉ nhận biết rõ ràng pháp đến rồi đi, đó là điều tự nhiên của vạn pháp. Và sự đến đi đó, là bài học “sinh diệt, vô thường, vô ngã” giúp cho chúng ta không bị dày vò phiền não khi nghịch cảnh đến, hoặc quá đắm chìm mê say hưởng khoái lạc, khi duyên thuận lợi đến với mình, mà phải sống trong trung đạo vừa phải.
16 Tháng Tư 202411:33 SA(Xem: 240)
Therefore, with our senses, we feel the “what-is.” It is the “As-Is Truth,” “Yathābhūta,” which is akin to the Truth, but it is not truly stable and permanent. It is also the “As-Is Delusion,” akin to a dream... The “As-Is Truth,” is the phenomena perceived by human senses and the latter, the “As-Is Delusion,” the Nature recognized by the Prajña Wisdom.
14 Tháng Tư 20245:07 CH(Xem: 919)
Cảnh sanh khởi, biến đổi rồi hoại diệt của thế gian là tự nhiên, là bình thường, là hợp tình hợp lý. Nếu hiểu thật sự điều này thì khi cái gì đó sanh ra hay diệt mất, ta không vui cũng không buồn. Bây giờ tâm bình an, thanh thản, bây giờ mới thấy nơi nào cũng là ngôi nhà xưa của mình, cảnh nào cũng hiển lộ những chân lý vô thường, duyên sinh, vô ngã, bản thể trống không… Pháp âm của Phật vang rền khắp hư không, như vậy cõi này đang là cõi Phật đó, bạn hiền ơi.
06 Tháng Tư 202410:03 SA(Xem: 263)
Nur einfach die Augen aufmachen und das Objekt wahrnehmen, wie es ist, mit verbalem oder nonverbalem Bewusstsein, der Geist ist rein, ruhig und objektiv. Das ist der Naturgeist. Gebote, Kontemplation, Samatha, Samadhi und Weisheit sind vollständig in ihm vorhanden.
06 Tháng Tư 20248:52 SA(Xem: 922)
... chiếc “xe một số” chính là cái Biết, nó đưa ta từ bước đầu tới bước cuối con đường. Thực ra, có con đường nào đâu, vì cái biết là của mình, từ đầu nó vẫn trong sạch, tĩnh lặng, khách quan và chiếu sáng. Bạn hiền ơi, cứ lấy viên ngọc đó ra mà xài, hồn nhiên, đừng lăng xăng tạo tác gì thêm nữa.
04 Tháng Tư 20241:07 CH(Xem: 372)
In Spring 1929, we cheered our Master’s coming into life. In Spring 1982, we celebrated the glory of our Master’s Recognition of the Path. In Winter 2019, he left us... But with those, this morning, under warm sunlight, while relishing the spring flowers, how come it seems someone’s eyes are full in tear.
29 Tháng Ba 20247:58 CH(Xem: 581)
Vậy qua giác quan, ta thấy “cái đang là”, đó là thấy Như Thực, giống như thiệt, chứ không phải thiệt có bền vững, thường hằng, mà đó cũng là “cái Như Huyễn”, như mộng mà thôi. ...cái Như Thực là thấy hiện tượng qua giác quan, còn cái Như Huyễn là thấy bản thể qua trí tuệ bát nhã.
29 Tháng Ba 20247:35 SA(Xem: 402)
5 LÝ DO chúng tôi chọn chủ đề: LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI
27 Tháng Ba 20246:45 SA(Xem: 389)
Heute, ein Frühlingsmorgen, blauer Himmel, weiße Wolken, warme Sonne und volle Kirschblüten vor dem Hof ​​des Sunyata Zentrums, möchte ich euch einen Meditations-Laib: Gebote, Samadhi und Weisheit anbieten, der aus dem reinen Wissen eines Naturgeistes gemacht wurde.
25 Tháng Ba 20249:43 SA(Xem: 426)
La nature du monde est vide, est vacuité. Ce n'est juste qu'une illusion. Cette sagesse nous donne la capacité de séparer notre mental de tout attachement au monde. Ce n’est qu’alors que l’on peut demeurer dans la conscience "Ainsi". Lorsque nous possédons la sagesse et la perspicacité pour reconnaître la nature du monde, alors il n’y a plus de chemin, plus besoin de dharma, plus de portes à ouvrir. Nous vivons vraiment dans notre maison spirituelle qui existe depuis toujours en nous.
24 Tháng Ba 20245:02 CH(Xem: 619)
Mùa xuân năm 1929, mừng Thầy đến, mùa xuân năm 1982, mừng Thầy thấy rõ con đường, mùa đông năm 2019, Thầy đi.... ...Biết vậy, mà sao sáng nay, trong nắng ấm, ngắm hoa xuân, lại dường như có ai rơi nước mắt.
24 Tháng Ba 20244:44 CH(Xem: 571)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: CON ĐƯỜNG GIỚI QUÁN ĐỊNH TUỆ ngày 16 tháng 3 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
24 Tháng Ba 202410:27 SA(Xem: 419)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Luận giảng số 1 GIỚI THIỆU CÁCH THỨC TẠO LUẬN
17 Tháng Ba 20243:11 CH(Xem: 502)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Lời Tựa
17 Tháng Ba 20242:16 CH(Xem: 682)
Chỉ là đơn thuần, mở mắt ra nhìn ngắm, cảnh thế nào nhận biết y như vậy, diễn nói hay thầm lặng, tâm đều trong sạch, tĩnh lặng, khách quan. Đó là chân tâm, Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ đầy đủ
13 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 489)
Unzählige Jahre habe ich törichterweise nach einem „Märchenland im Jenseits des Nebels“ gesucht. Wie oft bin ich dem Nebel begegnet und wie oft habe ich davon geträumt, ein Märchenland zu finden. Am Ende meines Lebens wurde es mir klar, dass das wahre Märchenland nirgendwo draußen ist, sondern es ist in mir.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 457)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 777)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 700)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 473)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 719)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 671)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 513)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 646)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 840)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 800)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 996)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 679)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 677)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 606)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 673)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 614)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 933)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 717)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 1053)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 745)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1386)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 875)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 1178)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 977)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 1164)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 1070)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 888)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 1021)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 1055)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 971)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 1032)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 1039)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
69,256