HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

ENG074 Tiến sĩ Michael Erb: NGHIÊN CỨU CỦA TIẾN SĨ MICHAEL ERB VỀ VIỆC THÀNH LẬP BẢN ĐỒ NÃO BỘ CỦA THIỀN SƯ THÍCH THÔNG TRIỆT

05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 703)

Trích từ sách Luận giảng vấn đáp về Thiền và Kiến Thức Thời Đại
Luận giảng 
số 8

2-THIEN-VA-KIENTHUCTHOIDAI-_TNFinal_July18Research works from Dr. Michael Erb

on the mapping of the brain

of Master Reverend Thích Thông Triệt

Nghiên cứu của Tiến sĩ Michael Erb

về việc thành lập bản đồ não bộ

của Thiền Thích Thông Triệt

 

The last measurements of Master Reverend Thích Thông Triệt were performed on 8th and 9th of June 2013. Here I report some of the results from these experiments, combining functional magnetic resonance imaging (f-MRI) with simultaneous high density electroencephalography (EEG, 256 channels).

 

Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).

 

 image001image002

Figure 1: Magnetic Resonance Imaging (MRI, top) and high density electroencephalography (EEG). As there were still problems with the evaluation of the combined EEG (Figure, bottom), I concentrate in the following on the fMRI results.

Hình 1: Ảnh cộng hưởng từ (MRI, hình trên) và điện não đồ mật độ cao EEG. Vì sự đánh giá về kỹ thuật kết hợp với  EEG (hình 1, hình dưới) vẫn còn có vấn đề, tôi chú trọng vào kết quả f-MRI như dưới đây.


image003

Figure 2: Residual artifacts in the EEG data

In the different tasks, two types of paradigms have been used, the block design with altering between two different conditions (e.g. a meditation condition and a control condition of “day-to-day thinking”) and runs with continuous task over the whole measurement period. According to this, we used different data evaluation methods showing the difference between activation levels (t-maps) or difference between network connectivity (ECM, Lohmann 2010) based on correlation analysis.

Hình 2: Những vấn đề (bad contact) ở trong dữ liệu EEG

Trong những thí nghiệm khác nhau, hai mô thức thí nghiệm được dùng, mô thức khối (block design) thay đổi luân phiên giữa hai điều kiện khác nhau (ví dụ như điều kiện thiền Địnhđiều kiện chuẩn "nói thầm") và sự thu thập dữ kiện được thực hiện liên tục trong suốt thời gian thí nghiệm. Căn cứ trên đó, chúng tôi dùng phương pháp đánh giá dữ kiện khác nhau để tìm ra sự khác biệt giữa các mức độ hoạt động (bản đồ-t) hoặc sự khác biệt giữa mạng lưới liên kết (Eigenvector Centrality Mapping - ECM, Lohmann 2010) dựa trên sự phân tích tính tương quan.

12.1  Different levels of breathing meditation.

Meditation means to recognize the nature of mind, the pure awareness on top of which the thoughts arise like waves on the ocean. To reach this state, the Buddha has introduced a method, which consists of observing the own breathing. In the first stage, one has to say silently (inner speech)
“I know that I breathe in, I know that I breathe out.”  In the second stage, the inner speech is omitted and a thought of tacit awareness is practiced. The third stage leads to a thought of awakening awareness.

 

12.1  Mức độ khác nhau của pháp thiền thở.

Thiền có nghĩa là nhận ra bản tánh của tâm, đó là cái Biết Thuần tịnh (pure awareness) trên đó vọng niệm khởi lên như sóng trên mặt biển. Để đạt được trạng thái này, Đức Phật đã giới thiệu một phương pháp bao gồm sự quán sát hơi thở của mình. Trong giai đoạn 1, hành giả thực tập Nói Thầm (nói trong đầu, inner speech,) "Tôi biết tôi hít vào, tôi biết tôi thở ra." Trong giai đoạn 2, buông bỏ lời nói thầm đó và thực hành Thầm Nhận Biết (tacit awareness). Giai đoạn 3 dẫn đến Tỉnh Thức Biết (awakening awareness).

  

In this experiment, Master Thích Thông Triệt was asked to practice stage 1 in the first 2 minutes of a 10 minutes fMRI measurement, followed by 4 minutes of stage 2 and 4 minutes of stage 3. In order to find out in which way the cooperation between the four relay stations of the brain was changed, we calculated the mean time course of the fMRI signal in the four Regions Of Interest (ROIs, Figure 3): reticular formation (Formatio ret), thalamus (Thal), hypothalamus (Hypothal), and precuneus (Prec).

 

Trong thử nghiệm này, Thiền sư Thích Thông Triệt thực hành giai đoạn 1 trong 2 phút đầu tiên của 10 phút đo đạc trên máy f-MRI, tiếp theo là 4 phút của giai đoạn 2, và 4 phút của giai đoạn 3. Để tìm ra sự hỗ tương tác động giữa bốn trạm tiếp vận của não bộ thay đổi như thế nào, chúng tôi tính toán quá trình thời gian trung bình của tín hiệu f-MRI trong bốn khu vực quan tâm này (ROIs, hình 3): Cơ Cấu Mạng Lưới (Formatio ret), Đồi Thị (Thal), Dưới Đồi (Hypothal), và Precuneus (Prec).

 

 luận 8

 Analysis in the three stages (blue, green, red) resulted in the following correlation values between the ROIs (Figure 4).

Phân tích sự tương quan giữa các vùng quan tâm (ROIs) qua 3 trạng thái thiền (thở với lời nói thầm: xanh dương; thở với thầm nhận biết: xanh lục; thở với tỉnh thức biết: đỏ).
image004

Figure 4: Correlation between the four relay stations of the brain (Precuneus, Thalamus, Hypothalamus, and Reticular Formation) in the three stages of breathing meditation.

Hình 4: Tương quan giữa 4 trạm tiếp vận của não bộ (Precuneus, Đồi Thị, Dưới Đồi, và Cơ Cấu Mạng Lưới) trong 3 giai đoạn thiền thở.

 

The correlation between the precuneus and the thalamus was reduced in the third state (“awakening awareness“). In contrast to this, the correlation between the precuneus and the hypothalamus was increased.

In the second stage, breathing with "tacit awareness”, the activity in the precuneus was changing in opposite direction compared to the activity in the reticular formation (negative correlation) whereas in the third stage the correlation was again positive.

Trong giai đoạn 3 (Tỉnh Thức Biết) sư tương quan giữa Precuneus và Đồi Thị giảm xuống, ngược lại, sự tương quan giữa Precuneus và Dưới Đồi tăng lên. 

Trong giai đoạn 2, thở với "Thầm Nhận Biết", hoạt động ở Precuneus thay đổi theo chiều ngược lại, theo chiều hướng âm (negative correlation) so với hoạt động ở Cơ Cấu Mạng Lưới trong khi ở giai đoạn 3, sự tương quan theo chiều dương.

 

The correlation between the thalamus and the hypothalamus was high only in the first stage (breathing with inner speech) and disappeared in the third stage (“awakening awareness”).

Looking on the correlation between the thalamus and the reticular formation, we found a high positive value in the first stage (breathing with inner speech), a reduced value in the second stage, and again a high value in the third stage. The same pattern was found in the correlation between the hypothalamus and the reticular formation.

Sư tương quan giữa Đồi Thị và vùng Dưới Đồi chỉ cao trong giai đoạn đầu (thở với Lời Nói Thầm trong đầu) và biến mất trong giai đoạn thứ ba (Tỉnh Thức Biết).

Nhìn vào sự tương quan giữa Đồi Thị và Cơ Cấu Mạng Lưới, chúng tôi tìm thấy hệ số tương quan cao trong giai đoạn 1 (Thở với Lời Nói Thầm), rồi giảm trong giai đoạn 2, và lại tăng lên cao trong giai đoạn 3. Sự tương quan giữa Dưới Đồi và Cơ Cấu Mạng Lưới cũng tương tự như vậy.

 

So the first stage is dominate by a strong correlation between thalamus and the reticular formation (0.65) and a little less correlation between the hypothalamus and the reticular formation (0.41) and between the hypothalamus and the thalamus (0.31). The correlation between the precuneus and the other relay stations is decreasing from the thalamus (0.33), the hypothalamus (0.17) to the reticular formation (0.1).

Như vậy giai đoạn đầu (Nói Thầm) sự tương quan giữa Đồi Thị và Cơ Cấu Mạng Lưới rất cao (0,65) và thấp hơn giữa Dưới Đồi và Cơ Cấu Mạng Lưới (0,41) và giữa Dưới Đồi và Đồi Thị (0,31). Sự tương quan giữa Precuneus và các trạm tiếp vận khác giảm xuống từ Đồi thị (0.33), Dưới Đồi (0.17) đến Cơ Cấu Mạng Lưới (0.1).

 

The decreasing of the correlation between the precuneus and the other relay stations was even stronger in the second stage (0.35, 0.14, and -1.2). The correlations between the reticular formation and the thalamus (0.19) respectively the hypothalamus (0.12) were much lower than in stage 1. In addition, the correlation between the hypothalamus and the thalamus (0.07) was considerable reduced.

Sự tương quan giữa Precuneus và các trạm tiếp vận khác còn giảm xuống nhiều hơn trong giai đoạn thứ hai (0.35, 0.14, và -1.2). Sự tương quan giữa Cơ Cấu Mạng Lưới  và Đồi Thị (0.19) và Dưới Đồi (0,12), thấp hơn nhiều so với giai đoạn 1. Ngoài ra, sự tương quan giữa Dưới Đồi và Đồi Thị (0.07) giảm xuống đáng kể.

 

In the third state, the correlation between the precuneus and the other relay stations was more or less equal (0.20, 0.24, and 0.24). The correlations between the reticular formation and the thalamus (0.34) respectively the hypothalamus (0.44) were again increased compared to stage 2. The correlation between the hypothalamus and the thalamus (-0.01) completely disappeared.

Trong trạng thái thứ ba (Tỉnh Thức Biết), sự tương quan giữa Precuneus và các trạm tiếp vận ít nhiều tương đối bình đẳng (0.20, 0.24, và 0.24). Sự tương quan giữa Cơ Cấu Mạng Lưới và Đồi Thị (0.34) và Dưới Đồi (0.44) tăng lên so với giai đoạn 2 (thầm nhận biết). Ngoài ra, sự tương quan giữa Dưới Đồi và Đồi Thị hoàn toàn biến mất (-0.01).

 

12.2  Bare Cognitive Awareness

In the next measurement session, Master Thích Thông Triệt was asked to practice “Bare Cognitive Awareness” (Nhận Thức Biết Trống Rỗng), the next level of meditation for 10 minutes. We used the calculation of eigenvector centrality maps (ECM) as described in Lohmann et. al. (2010) to analyze this session and compared it to the mean over all sessions.  Eigenvector centrality attributes a value to each voxel in the brain such that a voxel receives a large value if it is strongly correlated with many other nodes that are themselves central within the network.

12.2  Nhận Thức Biết Trống Rỗng

Trong lần đo thí nghiệm tiếp theo, thiền sư Thích Thông Triệt thực hành "Nhận Thức Biết Trống Rỗng,” mức độ thiền tiếp theo cao hơn trong 10 phút. Chúng tôi dùng phép tính Bản Đồ Trung Tâm Tính Eigenvector (Eigenvector Centrality Maps, ECM) được mô tả bởi Lohmann et. al. (2010) để phân tích và so sánh thí nghiệm này với trị số trung bình của các thí nghiệm. ECM xác định ra một trị số cho mỗi voxel trong não. Một voxel mang một trị số lớn nếu nó tương quan mạnh với nhiều điểm khác ở giữa mạng lưới.

 

This method does not require a parceling into ROIs but can be calculated on a voxel-wise level.

The highest increase of connectivity in “Cognitive Awareness” compared to the mean of all other sessions (shown in red in Figure 5) was found in the left Heschl's gyrus (BA 41, BA 42, BA 22). Decreased connectivity (shown in green or blue in Figure 5) was found in the left superior temporal gyrus (BA 22/BA 39).

Phương pháp này không đòi hỏi một phân chia các vùng quan tâm (ROIs) nhưng có thể được tính ở mức độ voxel (voxel-wise).

Sự tăng gia kết nối cao nhất ở "Nhận Thức Biết" so với mức trung bình của tất cả các thí nghiệm khác (màu đỏ trong hình 5) được tìm thấy trong các nếp gấp trái  Heschl (BA 41, BA 42, BA 22). Sự giảm kết nối (thể hiện trong màu xanh lục hoặc màu xanh da trời trong hình 5) được tìm thấy trong các nếp gấp trên bên trái thuộc thùy thái dương (BA 22/BA 39).

 

image005

Figure 5: Different network connection in the session “Cognitive Awareness” Upper row: Brain surface from left and back; Middle row: sagittal and coronal plane in the left Heschl's gyrus (BA 41, BA 42, BA 22); Lower row: sagittal and coronal plane in the left superior temporal gyrus (BA 22/BA 39). Increased connectivity (ECM) in “Cognitive Awareness” compared to the mean of all sessions is shown in red, decreased connectivity is shown in green or blue.

Hình 5: Mạng lưới kết nối (network connection) khác nhau trong thí nghiệm "Nhận Thức Trống Rỗng." Hàng trên: Bề mặt não trái và phía sau; Hàng giữa: mặt cắt dọc và ngang qua nếp gấp trái Heschl (BA 41, BA 42, BA 22); Hàng dưới: mặt cắt dọc và ngang qua nếp gấp trên phía trái thùy thái dương (BA 22/BA 39). Sự kết nối tăng lên (ECM) trong lúc "Nhận Thức Trống Rỗng" so với số lượng trung bình của tất cả thí nghiệm khác thể hiện qua màu đỏ, và sự giảm thiểu kết  nối được thể hiện qua màu xanh lá cây hoặc màu xanh da trời.

image006

Figure 6: Schematic position of the Heschl's gyri (BA 41, BA 42, BA 22), left middle temporal gyrus (BA 22), and left angular gyrus (BA 39).

Hình 6: Đồ hình vị trí các nếp gấp Heschl (BA 41, BA 42, BA 22), nếp gấp giữa bên trái thùy thái dương (BA 22), và nếp gấp góc (angular gyrus) trái (BA 39).

 

12.3  Nature of Cognition

In the following session, Master Thích Thông Triệt was asked to alter between normal day-to-day discursive thinking (baseline condition) and the practice of “Nature of Cognition” corresponding to the “Bare Cognitive Awareness”, the bare cognition of things without reflexing and reasoning. The total duration of this run was 12 minutes with 2 min. baseline – 3 min. meditation – 2 min. baseline – 3 min. meditation – 2 min. baseline. With this paradigm one can calculate the difference of the activation levels between the two conditions (t-maps). Regions with a significant increase of the activation level in the meditation condition compared to the baseline condition are shown in red. In contrast to this, regions with significant decrease of the activation level in the meditation condition compared to the baseline condition are shown in green or blue.

12.3  Tánh Nhận Thức

Trong phần thí nghiệm kế tiếp, thiền sư Thích Thông Triệt thay đổi giữa Nói Thầm (tiêu chuẩn, baseline) và thực hành "Tánh Nhận Thức" tương ứng với "Nhận Thức Biết Trống Rỗng," nhận thức đơn thuần không suy nghĩlý luận. Thời gian tổng cộng của thí nghiệm này kéo dài 12 phút với 2 phút làm chuẩn (baseline), 3 phút thiền, 2 phút chuẩn, 3 phút thiền, 2 phút chuẩn. Với mô thức này ta có thể tính toán sự khác biệt của các mức độ hoạt động giữa hai điều kiện (bản đồ-t). Vùng não bộ nào có sự gia tăng đáng kể trong trạng thái thiền so với trạng thái chuẩn hiện lên màu đỏ. Ngược lại, vùng nào giảm thiểu hoạt động đáng kể trong lúc thiền so với mức tiêu chuẩn hiện ra màu xanh lá cây hoặc màu xanh dương.

 

In this session we found the highest activation in the triangular part of the left inferior frontal gyrus corresponding to the Brodmann area 46 (BA 46). This region plays a role in sustaining attention and working memory and is involved in exhibiting self-control. The highest deactivation was found in the orbital part of the left middle frontal gyrus which belongs to Brodmann area 10 (BA 10). This region is involved in strategic processes, in memory recall and various executive functions.

Trong phần thí nghiệm này, chúng tôi nhận thấy sự hoạt động cao nhất ở phần tam giác của nếp gấp dưới bên trái của vùng tiền trán tương ứng với vùng Brodmann 46 (BA 46). Vùng này đóng một vai trò trong việc duy trì sự chú ý, ký ức vận hành, và sự tự kiểm soát (self-control). Sự ngưng hoạt động cao nhất được tìm thấy ở phần orbital (orbital part) của nếp gấp giữa bên trái tiền trán thuộc vùng Brodmann 10 (BA 10). Vùng này tham dự vào tiến trình thành lập kế hoạch, gợi lại ký ức, và nhiều chức năng điều hành khác.

 image007

 Figure 7: Different activation levels between “Nature of Cognition” and baseline condition (day-to-day thinking). Upper row: Brain surface from front and left; Middle row: coronal and sagittal plane in the triangular part of the left inferior frontal gyrus (BA 46); Lower row: coronal and sagittal plane in the orbital part of the left middle frontal gyrus (BA 10). Increased activation in “Nature of Cognition” compared to “day-to-day thinking” is shown in red, decreased activation is shown in green or blue.

Hình 7: Mức độ hoạt động khác nhau giữa "Tánh Nhận Thức" và điều kiện chuẩn baseline (suy nghĩ thường ngày). Hàng trên: Bề mặt não từ phía trước và bên trái; Hàng giữa: Mặt cắt ngang và dọc vùng tam giác (triangular part) của nếp gấp tiền trán dưới (BA 46); Hàng dưới: Mặt cắt ngang và dọc ở phần orbital (orbital part) của nếp gấp giữa bên trái tiền trán (BA 10). Sự tăng gia hoạt động ở "Tánh Nhận Thức" so với “nói thầm thường ngày" được thể hiện qua màu đỏ, sự giảm thiểu hoạt động được thể hiện qua màu xanh lá cây hay xanh dương.

image008

Figure 8: Schematic position of Brodmann Area 46
Hình 8: Đồ hình vị trí của vùng Brodmann 46

image009

Figure 9: Schematic position of Brodmann Area 10
Hình 9:  Đồ hình vị trí vùng Brodmann 10

12.4  Different levels of thinking

In a further session, we used again the block design to distinguish between different levels of thinking. To be more sensitive, we used a block length of 30 seconds and altered between four conditions: “Count”, “Intellect”, ”Mind base”, and ”Consciousness”. The control condition “Count” was counting from 1 to 10 with inner speech (“Đếm Thầm số 1 – 10”, o). The first activation condition “Intellect” was discursive thinking about objects, interpretation or their relation to other things, and making plans for the future (“Trí Năng”, I). The second activation condition “Mind base” was to ruminate, to speculate, and to remember objects and their relation to one self (“Ý Căn”, M). The third activation condition “Consciousness” was to differentiate, to compare, and to evaluate objects and their relation to the context and environment (“Ý Thức”, C). The four conditions were presented on the display in the order o-I-M-C-o-M-I-C-o-M-C-I-o-C-I-M-o-I-C-M-o. So each condition occurred 5 times in the whole measurement of 10 minutes and 30 seconds.

12.4  Những mức độ khác nhau của sự suy nghĩ

Trong một lần đo khác, chúng tôi dùng thiết kế khối (block design) để phân biệt các mức độ khác nhau của sự suy nghĩ. Để cho sự đo đạc bén nhạy, chúng tôi dùng thời gian là 30 giây cho mỗi khối thí nghiệm, và thay đổi luân phiên giữa bốn điều kiện: "Đếm số," "Trí Năng," "Ý Căn," và "Ý Thức." Điều kiện chuẩn "Đếm số" được đếm thầm từ 1 đến 10 (Đếm Thầm, o). Điều kiện hoạt động đầu tiên của"Trí Năng" là đối thoại thầm lặng về các đối tượng, về sự giải thích hay về sự tương quan của chúng với những đối tượng khác, và lập kế hoạch tương lai (Trí Năng, I). Điều kiện hoạt động thứ hai của "Ý Căn" là nghiền ngẫm, suy đoán và nhớ lại các đối tượng và sự liên hệ của chúng đối với mình (Ý Căn, M). Điều kiện hoạt động thứ ba của "Ý thức" là phân biệt, so sánh, và đánh giá các đối tượng và sự liên quan của chúng với hoàn cảnh và môi trường (Ý Thức, C).  Bốn điều kiện được trình bày trên màn hình theo thứ tự o-I-M-C-o-M-I-Co-M-C-I-o-C-I-M-o-I-C-M-o. Như vậy mỗi điều kiện được xảy ra 5 lần trong toàn bộ đo đạt kéo dài 10 phút và 30 giây.

image010

Figure 10: Different activation levels between “Consciousness” and baseline condition (“Count from 1 to 10”). Upper row: Brain surface from front and right; Middle row: coronal and sagittal plane in the orbital part of the right middle frontal gyrus (BA 10); Lower row: coronal and sagittal plane in the right rolandic operculum (BA 43). Increased activation in “Consciousness” compared to “Count” is shown in red, decreased activation is shown in green or blue. 

Hình 10: Mức độ hoạt động khác nhau giữa "Ý thức" và điều kiện chuẩn ("Đếm từ 1 đến 10"). Hàng trên: Bề mặt não bộ từ phía trước và bên phải; Hàng giữa: Mặt cắt ngang và dọc ở phần orbital (orbital part) ở nếp gấp giữa bên phải tiền trán (BA 10); Hàng dưới: Mặt cắt ngang và dọc ở vùng rolandic operculum bên mặt (BA 43). Sự tăng gia hoạt động của "Ý Thức" so với "Đếm Thầm" hiện  màu đỏ, sự giảm thiểu hoạt động hiện màu xanh lá cây hoặc xanh dương.

 

For the condition “Intellect” we found increased activation in the orbital part of the left middle frontal gyrus (BA 10), the same region which was decreased in the “Nature of Cognition” condition described before and seems to be connected to the day-to-day thinking. For the condition “Consciousness” we found increased activation on the other side, in the orbital part of the right middle frontal gyrus (BA 10) and in the right rolandic operculum (BA 43).

Đối với điều kiện "Trí Năng," chúng tôi nhận thấy sự gia tăng hoạt động ở phần orbital (orbital part) của nếp gấp giữa bên trái tiền trán (BA 10), hoạt động ở vùng này giảm xuống trong điều kiện "Tánh Nhận Thức" đã được mô tả trước đây và dường như có liên kết với sự suy nghĩ thường ngày. Trong điều kiện với "Ý Thức," chúng tôi nhận thấy sự tăng gia hoạt động ở phần orbital (orbital part) của nếp gấp giữa bên mặt tiền trán (BA 10) phía bên kia bán cầu não, và ở vùng rolandic operculum bên phải (BA 43).

image011

Figure 11: Schematic position of Brodmann Area 43
Hình 11: Đồ hình vị trí của vùng Brodmann 43

 

Conclusion

In the three states of breathing meditation, we found considerable changes in the correlation structure between the four relay stations of the human brain. In the first two states (inner speech and tacit awareness), the correlation between the precuneus and the other relay stations decreased corresponding to the hierarchy level, highest correlation with the thalamus, lower correlation with the hypothalamus, and smallest (or even negative) correlation with the reticular formation. In contrast to this, the third stage (awakening awareness) resulted in equal correlation with all three structures.

Network structure also changed in the “Bare Cognitive Awareness” Meditation session showing higher eigenvector centrality of the left Heschl's gyrus, the primary auditory cortex, and lower eigenvector centrality of the posterior part of the left superior temporal gyrus and the left angular gyrus, structures involved in semantic language processing.

The meditation session with “Nature of Cognition” altered with day-to-day discursive thinking we could show a decrease of activity in the left BA 10, which is mainly engaged in verbal reasoning and planning, and an increase in the left BA 46, which is related to attention and self-control.

The investigation of the different levels of thinking showed a shift of activation in the middle frontal gyrus (BA 10) from the left side (as in the day-to-day thinking condition) to the corresponding structure on the right side engaged in context processing.

 

Kết luận

Trong ba trạng thái của thiền thở, chúng tôi nhận thấy có những thay đổi đáng kể trong sự tương quan giữa bốn trạm tiếp vận của bộ não con người. Trong hai trạng thái đầu tiên (Nói Thầm trong não và Thầm Nhận Biết), sự tương quan giữa Precuneus và các Trạm Tiếp Vận Khác giảm xuống theo thứ tự,  cao nhất với Đồi Thị, thấp hơn với Dưới Đồi, và nhỏ nhất (hoặc ngay cả đến số âm) với Cơ Cấu Mạng Lưới. Ngược lại, trạng thái thứ ba (Tỉnh Thức Biết) có sự tương quan như nhau với tất cả 3 cấu trúc.

Cấu trúc mạng lưới cũng thay đổi ở giai đoạn thiền "Nhận Thức Biết Trống Rỗng" cho thấy trung tâm tính  eigenvector của nếp gấp trái Heschl, vùng vỏ não chính của tánh Nghe cao hơn, và trung tâm tính eigenvector của phần sau của nếp gấp trên bên trái thái dương và nếp gấp góc (angular gyrus) trái, cấu trúc liên quan đến việc xử lý ngôn ngữ ngữ nghĩa, thấp hơn.

Trong lần thiền với "Tánh Nhận Thức" không suy nghĩ, chúng tôi nhận thấy sự sụt giảm hoạt động ở vùng BA 10 bên trái, đây là vùng chính yếu tham dự vào việc lý luận bằng lời nói và lập kế hoạch, và hoạt động gia tăng ở vùng BA 46 bên trái, là vùng liên quan đến sự chú ý và tự kiểm soát (self-control).

Nghiên cứu về mức độ suy nghĩ khác nhau, cho thấy hoạt động ở nếp gấp trán giữa (BA 10) từ phía bên trái (như trong điều kiện suy nghĩ thường ngày) xê dịch từ bên trái đến cấu trúc tương ứng ở phía đối diện bên phải liên quan trong các việc xử lý nói trên.

 

Acknowledgements

We thank all supporters from Śūnyatā Meditation Association who helped to realize these measurements.

Special thanks to Ashish Kaul Sahib and Bankim Chander for the assistance with applying the 256 channel EEG system and performing the measurements. We also thank Prof. Dr. Klaus Scheffler from the Department of Biomedical Magnetic Resonance, University Hospital Tübingen, Germany for providing the opportunity to use time and the equipment to perform this study.

Lời cảm ơn  

Chúng tôi cảm ơn tất cả những người trợ giúp từ Hội Thiền Tánh Không đã giúp đỡ thực hiện các thí nghiệm này.

Đặc biệt cảm ơn ông Ashish Kaul Sahib và ông Bankim Chander đã hỗ trợ việc áp dụng hệ thống EEG  256 channels, và thực hiện các việc đo đạc. Chúng tôi cũng cảm ơn Giáo sư Tiến sĩ Klaus Scheffler từ Phân khoa Y Khoa Sinh Học Cộng Hưởng Từ, Bệnh viện Đại học Tübingen, Đức quốc đã cung cấp cho chúng tôi cơ hội sử dụng thời gian và thiết bị để thực hiện công cuộc nghiên cứu này.

 

References

Lohmann G, Margulies DS, Horstmann A, Pleger B, Lepsien J, Goldhahn D, Schloegl H, Stumvoll M, Villringer A, Turner R.: Eigenvector centrality mapping for analyzing connectivity patterns in fMRI data of the human brain. PLoS One. 2010 Apr 27;5(4):e10232. doi: 10.1371/journal.pone.0010232.

The schematic pictures of the brain regions were taken from http://en.wikipedia.org/wiki/ and http://gehirnlernen.de

Tham khảo

Lohmann G, Margulies DS, Horstmann A, Pleger B, Lepsien J, Goldhahn D, Schloegl H, Stumvoll M, Villringer A, Turner R.: Eigenvector centrality mapping for analyzing connectivity patterns in fMRI data of the human brain. PLoS One. 2010 Apr 27;5(4):e10232. doi: 10.1371/journal.pone.0010232.

The schematic pictures of the brain regions were taken from http://en.wikipedia.org/wiki/ and http://gehirnlernen.de

 
______________________________________

About the author of this article
luận 8 b

Michael Erb (michael.erb@med.uni-tuebingen.de) studied physics at the Universities of Karlsruhe and Tübingen, Germany, and graduated in 1985. He pursued his Ph.D. Studies on artificial neural networks at the Max Planck Institute for Biological Cybernetic in Tübingen from 1986–1990. After a research visit at the Institute for Brain Research, University of Düsseldorf, he was a research fellow at the Institute for Neurophysics, University of Marburg, Germany.

From 1995-2011, he has been a research fellow at the Department of Neuroradiology, University of Tübingen, performing fMRI studies on several topics. Since 2011, he is a research fellow at the Department of Biomedical Magnetic Resonance, University of Tübingen and since 2012 guest scientist at the Max Planck Institute for Biological Cybernetic in Tübingen. He is involved in building MR compatible stimulation devices and programming MR pulse sequences and analysis software.

Về tác giả của văn kiện này

Michael Erb (michael.erb @ med.uni-tuebingen.de) học vật lý học tại trường Đại học Karlsruhe và Tübingen, Đức Quốc,  tốt nghiệp vào năm 1985. Ông tiếp tục cấp Tiếntheo đuổi việc nghiên cứu về mạng lưới thần kinh nhân tạo tại Viện Sinh Học về Cybernetic Max Planck tại Tübingen từ 1986 -1990. Sau lần được mời nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Não bộ, Đại học Düsseldorf, ông là một nghiên cứu sinh  tại Viện Vật Lý Thần Kinh, Đại học Marburg, Đức.

Từ 1995-2011, ông là một nghiên cứu sinh tại Viện Thần Kinh Bức Xạ Học, Đại học Tübingen, điều khiển máy fMRI cho nhiều đề tài nghiên cứu. Từ năm 2011, ông là một nghiên cứu sinh tại Khoa Y Khoa Sinh Học Cộng Hưởng Từ (Biomedical Magnetic Resonance), Đại học Tübingen và từ năm 2012 là khoa học gia khách tại Viện Điều Khiển Học Sinh Học Max Planck tại Tübingen. Ông tham gia vào việc thiết lập những thiết bị tương hợp và lập trình pulse sequence cho máy MR và nhu liệu dùng cho việc phân tích.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21 Tháng Tư 20242:20 CH(Xem: 423)
Vậy thì “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” có thể là muôn pháp đều về tâm, còn nếu thắc mắc: tâm về chỗ nào? Thì ăn gậy là phải rồi. Bây giờ mới hiểu tại sao chư Thiền Đức ngày xưa ra đi không cần lưu lại dấu vết mà hê thống kinh Bát nhã ba la mật lại viết tràng giang đại hải về Không, Huyễn và Chân Như. Có phải vì chỗ đó ngoài ngôn ngữ, còn nếu dùng ngôn ngữ thì nói hoài cũng không xong?
20 Tháng Tư 20246:38 SA(Xem: 82)
Also durch die Sinnesorgane nehmen wir also, „was gerade ist“, eine reale Sache wahr, das heißt, wir nehmen es wie eine reale Sache, obwohl es nicht echt ist. Ebenso ist ihre Stabilität, ihre Dauerhaftigkeit eine „Illusion“... Das Reale besteht darin, Phänomene durch die Sinnesorgane wahrzunehmen und die Illusion besteht darin, die Essenz eines Phänomens durch eine Weisheit zu verstehen.
17 Tháng Tư 20242:27 CH(Xem: 256)
Tu tập theo đạo Phật không phải để sở hữu được điều gì, mà thực ra là để buông xả không bám víu với bất kỳ những gì ở trên đời... mà chỉ nhận biết rõ ràng pháp đến rồi đi, đó là điều tự nhiên của vạn pháp. Và sự đến đi đó, là bài học “sinh diệt, vô thường, vô ngã” giúp cho chúng ta không bị dày vò phiền não khi nghịch cảnh đến, hoặc quá đắm chìm mê say hưởng khoái lạc, khi duyên thuận lợi đến với mình, mà phải sống trong trung đạo vừa phải.
16 Tháng Tư 202411:33 SA(Xem: 212)
Therefore, with our senses, we feel the “what-is.” It is the “As-Is Truth,” “Yathābhūta,” which is akin to the Truth, but it is not truly stable and permanent. It is also the “As-Is Delusion,” akin to a dream... The “As-Is Truth,” is the phenomena perceived by human senses and the latter, the “As-Is Delusion,” the Nature recognized by the Prajña Wisdom.
14 Tháng Tư 20245:07 CH(Xem: 801)
Cảnh sanh khởi, biến đổi rồi hoại diệt của thế gian là tự nhiên, là bình thường, là hợp tình hợp lý. Nếu hiểu thật sự điều này thì khi cái gì đó sanh ra hay diệt mất, ta không vui cũng không buồn. Bây giờ tâm bình an, thanh thản, bây giờ mới thấy nơi nào cũng là ngôi nhà xưa của mình, cảnh nào cũng hiển lộ những chân lý vô thường, duyên sinh, vô ngã, bản thể trống không… Pháp âm của Phật vang rền khắp hư không, như vậy cõi này đang là cõi Phật đó, bạn hiền ơi.
06 Tháng Tư 202410:03 SA(Xem: 251)
Nur einfach die Augen aufmachen und das Objekt wahrnehmen, wie es ist, mit verbalem oder nonverbalem Bewusstsein, der Geist ist rein, ruhig und objektiv. Das ist der Naturgeist. Gebote, Kontemplation, Samatha, Samadhi und Weisheit sind vollständig in ihm vorhanden.
06 Tháng Tư 20248:52 SA(Xem: 901)
... chiếc “xe một số” chính là cái Biết, nó đưa ta từ bước đầu tới bước cuối con đường. Thực ra, có con đường nào đâu, vì cái biết là của mình, từ đầu nó vẫn trong sạch, tĩnh lặng, khách quan và chiếu sáng. Bạn hiền ơi, cứ lấy viên ngọc đó ra mà xài, hồn nhiên, đừng lăng xăng tạo tác gì thêm nữa.
05 Tháng Tư 20246:46 CH(Xem: 272)
Bài Luận giảng này cho chúng ta biết rằng: điểm quan trọng bậc nhất của Thiền chỉ là làm chủ tâm ngôn. Không làm chủ được tâm ngôn, dù chỉ trong vòng vài giây đồng hồ, đường Thiền của ta sẽ đến nơi bế tắc.
04 Tháng Tư 20241:07 CH(Xem: 349)
In Spring 1929, we cheered our Master’s coming into life. In Spring 1982, we celebrated the glory of our Master’s Recognition of the Path. In Winter 2019, he left us... But with those, this morning, under warm sunlight, while relishing the spring flowers, how come it seems someone’s eyes are full in tear.
29 Tháng Ba 20247:58 CH(Xem: 554)
Vậy qua giác quan, ta thấy “cái đang là”, đó là thấy Như Thực, giống như thiệt, chứ không phải thiệt có bền vững, thường hằng, mà đó cũng là “cái Như Huyễn”, như mộng mà thôi. ...cái Như Thực là thấy hiện tượng qua giác quan, còn cái Như Huyễn là thấy bản thể qua trí tuệ bát nhã.
29 Tháng Ba 20247:35 SA(Xem: 386)
5 LÝ DO chúng tôi chọn chủ đề: LUẬN GIẢNG VẤN ĐÁP THIỀN VÀ KIẾN THỨC THỜI ĐẠI
27 Tháng Ba 20246:45 SA(Xem: 381)
Heute, ein Frühlingsmorgen, blauer Himmel, weiße Wolken, warme Sonne und volle Kirschblüten vor dem Hof ​​des Sunyata Zentrums, möchte ich euch einen Meditations-Laib: Gebote, Samadhi und Weisheit anbieten, der aus dem reinen Wissen eines Naturgeistes gemacht wurde.
25 Tháng Ba 20249:43 SA(Xem: 406)
La nature du monde est vide, est vacuité. Ce n'est juste qu'une illusion. Cette sagesse nous donne la capacité de séparer notre mental de tout attachement au monde. Ce n’est qu’alors que l’on peut demeurer dans la conscience "Ainsi". Lorsque nous possédons la sagesse et la perspicacité pour reconnaître la nature du monde, alors il n’y a plus de chemin, plus besoin de dharma, plus de portes à ouvrir. Nous vivons vraiment dans notre maison spirituelle qui existe depuis toujours en nous.
24 Tháng Ba 20245:02 CH(Xem: 600)
Mùa xuân năm 1929, mừng Thầy đến, mùa xuân năm 1982, mừng Thầy thấy rõ con đường, mùa đông năm 2019, Thầy đi.... ...Biết vậy, mà sao sáng nay, trong nắng ấm, ngắm hoa xuân, lại dường như có ai rơi nước mắt.
24 Tháng Ba 20244:44 CH(Xem: 553)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: CON ĐƯỜNG GIỚI QUÁN ĐỊNH TUỆ ngày 16 tháng 3 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
24 Tháng Ba 202410:27 SA(Xem: 408)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Luận giảng số 1 GIỚI THIỆU CÁCH THỨC TẠO LUẬN
17 Tháng Ba 20243:11 CH(Xem: 487)
Trích từ sách Luận Giảng Vấn Đáp về THIỀN và KIẾN THỨC THỜI ĐẠI của HT Thích Thông Triệt (2014) - Lời Tựa
17 Tháng Ba 20242:16 CH(Xem: 665)
Chỉ là đơn thuần, mở mắt ra nhìn ngắm, cảnh thế nào nhận biết y như vậy, diễn nói hay thầm lặng, tâm đều trong sạch, tĩnh lặng, khách quan. Đó là chân tâm, Giới, Quán, Chỉ, Định, Tuệ đầy đủ
13 Tháng Ba 20249:44 SA(Xem: 480)
Unzählige Jahre habe ich törichterweise nach einem „Märchenland im Jenseits des Nebels“ gesucht. Wie oft bin ich dem Nebel begegnet und wie oft habe ich davon geträumt, ein Märchenland zu finden. Am Ende meines Lebens wurde es mir klar, dass das wahre Märchenland nirgendwo draußen ist, sondern es ist in mir.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 446)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 757)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 688)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 464)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 649)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 484)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 617)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 807)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 766)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 959)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 642)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 638)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 587)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 667)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 603)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 924)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 708)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 1017)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 727)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1368)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 853)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 1149)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 955)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 1134)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 1043)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 870)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 1017)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 1041)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 962)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 1022)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 1026)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
69,256