HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

TỔNG KẾT lớp 1 & 2 Tâm Lý Học Phật Giáo.

04 Tháng Mười Một 20156:38 SA(Xem: 13647)

Bài Tổng Kết

Lớp 1 Khoá 1 Tâm Lý Học Phật Giáo

Khai giảng: 6 tháng 5 – 2000

Bế giảng: 27 tháng 8 – 2000

Không Chiếu

********

Kính bạch Thầy,

Kính thưa quí vị Tăng Ni,

Quí quan khách thân hữu,

Thưa quí bạn Thiền sinh,

Hôm nay là ngày bế giảng lớp 1 Tâm Lý Học Phật Giáo, con, Thích Không Chiếu, trưởng lớp, xin trình bày tóm lược những gì chúng con được Thầy hướng dẫn trong 4 tháng qua.  Sở dĩ con nói đây là lớp 1, vì chúng con mong rằng trong thời gian tới, Thầy sẽ mở tiếp lớp 2 để hoàn tất giáo án đã đề ra.  Và chúng con tiếp tục được Thầy dẫn dắt vào khu vườn Phật học đầy hoa thơm cỏ lạ, nếu không có duyên này, không biết đến bao giờ chúng con mới đặt chân tới được.

Chúng con cũng ước mong sẽ in thành sách những bài chúng con đã học để giúp ai muốn tìm hiểu về Tâm Lý Học Phật Giáo, có tài liệu bổ ích để tin chắc rằng, sau Phật nhập diệt 2543 năm, chánh pháp vẫn còn trong sáng mãi.  Và đó là con đường tâm linh làm thăng hoa nhân cách, phát triển trí tuệ, đưa đến giác ngộgiải thoát.

Trong 4 tháng qua, 16 ngày chủ nhật, Thầy đã hướng dẫn chúng con 3 chủ đề lớn:

  1. Kết tập kinh điển
  2. Phân liệt hình thành bộ phái và chủ trương của các bộ phái
  3. A Tì Đạt Ma

thì giờ có hạn, con xin lược qua những nét chính từng chủ đề một, và những kết luận con thu hoạch được qua lớp học này.

 

I. KẾT TẬP KINH ĐIỂN

KẾT TẬP KINH ĐIỂN LẦN MỘT

  • Thời gian:

-       3 tháng sau Phật nhập diệt (483 Trước Công nguyên)

-       Vào năm thứ 8 triều đại A Xà Thế, được nhà vua bảo trợ, kéo dài 7 tháng.

  • Nơi chốn:

-       tại động Thất Diệp Sattapani, núi Vaibhāra, ngoại thành Vương xá (theo Nam Tông)

-       tại động Indrasāla, núi Linh Thứu (theo ngài Mã Minh, Bắc Tông)

  • Tham dự: 500 vị A La Hán, đệ tử Phật.
  • Chủ trì:
    • Tôn giả Đại Ca Diếp
    • Tôn giả Ưu Bà Ly tụng Luật
    • Tôn giả A Nan tụng Kinh
  • Lý do kết tập:

Tỳ kheo Subhadda trong tăng đoàn Ngài Đại Ca Diếp biểu lộ sự không khép mình theo lời Phật dạy, khi nghe tin Phật nhập diệt, thốt ra những lời vô phép như: ta đã thoát khỏi vị Đại Sa Môn ấy, từ nay những gì ta muốn, ta làm, những gì ta không muốn ta không làm...”  Tôn giả Đại Ca Diếp thấy vậy, e rằng Chánh pháp sẽ bị phá vỡ, nên triệu tập đại hội kết tập kinh điển.

  • Mục đích:

Củng cố lại tạng Kinh và tạng Luật dựa trên Phật ngôn, bảo tồn sự trong sáng của Chánh Pháp.

  • Hình thức:

Họp tụng miệng, chưa ghi lại thành sách.

  • Nội dung:

Ngài Đại Ca Diếp nêu lên câu hỏi.  Ngài Ưu Bà Ly trả lời liên quan đến Giới Luật.  Ngài A Nan trả lời liên quan đến Pháp.

  • Kết quả:

Tạo được truyền thống họp tụng kinh, tụng luật trong giáo đoànChánh pháp được duy trì.

  • Ngôn ngữ: Pāli.

 
KẾT TẬP KINH ĐIỂN LẦN 2.

  • Thời gian

Sau khi Phật nhập diệt 100 năm. (Năm 382-383 TCN), vào triều đại Kalasoka, kéo dài 8 tháng.  Không có ai bảo trợ.

  • Nơi chốn:  tại Vàlukàrama ở Tì xá ly.
  • Tham dự: 700 vị Trưởng lão thông suốt Kinh tạng, Luật tạng.
  • Chủ trì: Tôn giả Revata.
  • Hình thức:

1) Hỏi đáp về 10 điều phạm giới (của Tăng gốc Bạt Kỳ)

2) Họp tụng kinh luật (chưa ghi thành văn, chưa có tạng Luận)

  • Lý do:

Trưởng lão Da Xá đến Tì Xá ly, thấy các Tỳ kheo gốc Bạt Kỳ vi phạm giới luật bằng cách kêu gọi cúng dường tiền bạc, và nhiều vi phạm khác (cộng chung 10 điều).  Ngài vào thành giải thích cho dân chúng biết cúng dường như thế là sai giới luậtChư tăng gốc Bạt Kỳ buộc tội lại ngài Da Xá phạm giới luật “vạch lỗi chư Tăng trước tín đồ”.  Lỗi này nghiêm trọng, phải bị sấn xuất (đuổi ra khỏi nơi hoạt động hay tạm thời đình chỉ hoạt động).  Trưởng lão Da Xá quyết tâm chỉnh đốn giới luật bèn đi vận động các Trưởng lão kết tập kinh điển lần 2.

  • Kết quả:

Hội nghị kéo dài 8 tháng.  Cuối cùng tất cả đồng ý 10 điều sửa đổi của nhóm Bạt Kỳphi pháp.  Và tụng đọc lại Kinh, Luật.

Theo Nam Tông, sự kiện 10 điều phi pháp đưa đến phân liệt Tăng đoàn như sau: ngoài hội nghị của 700 vị Trưởng lão nói trên, một số rất đông Tỳ kheo lên đến 10.000 vị chống đối lại Đại hội, triệu tập một hội nghị nơi khác cũng để kết tập kinh điển.  Cuộc kết tập này gọi là Đại chúng hay Đại kết tập.  Kinh và Luật kết tập ở đây hoàn toàn khác với sự kết tập của Trưởng Lão bộ.  Đây cũng là nguyên nhân đưa đến phân chia giáo đoàn thành 2 nhóm: Thượng Tọa Bộ (chính thống, bảo thủ) và Đại Chúng Bộ (không chính thống, phóng khoáng).  Căn nguyên phân chia thành hai này là bất đồng quan điểm về giới luật.

Đàng khác, theo Bắc tông, nguyên nhân phân liệt là vấn đề Ngũ Sự (5 câu hỏi về vị A La Hán).  Sự kiện Ngũ Sự xảy ra cách thời Phật nhập diệt khoảng 200 năm, không liên quan gì đến 2 kỳ kết tập 2 và 3.  Ngài Đại Thiên (Mahādeva) nêu lên vấn đề Ngũ Sự và được một số đông Tỳ kheo chưa đắc quả A La Hán ủng hộNgũ Sự là:

  1. A La Hán có thể phạm giới trong lúc nằm mơ.
  2. Đối với các việc thế gian, A La Hántrường hợp không biết hết.
  3. A La Hán có những mối nghi trên vấn đề giáo lý.
  4. Không thể đắc quả A La Hán mà không có Thầy.
  5. Đạo đạt được với tiếng than “Aho” (khổ ơi!)

Ngài Đại Thiên còn nêu ra vấn đề, sau thời Phật, nếu người có tài thuyết pháp, cũng có thể làm ra kinh.

Do ngũ sự mà gây ra tranh luậnphân chia giáo đoàn thành hai nhóm: Thượng Tọa BộĐại Chúng Bộ theo sử sách Bắc TôngTruyền thống Nam Tông không công nhận Ngũ Sự, trái lại công nhận cuộc kết tập kinh điển lần 3 do ngài Mục Kiền Liên Tu Đế chủ trì

KẾT TẬP KINH ĐIỂN LẦN 3

  • Thời gian:  Khoảng 236 năm sau Phật nhập diệt (năm 250 TCN) dưới triều đại và sự bảo trợ của vua A Dục.
  • Nơi chốnHoa Thị Thành  (nay là Patna)
  • Thành phần: 1000 vị Trưởng Lão
  • Chủ trì:

1) Theo Nam Tông là ngài Mục Kiền Liên Tu Đế (Moggaliputta Tissa).

2) Theo Bắc Tông là ngài U Ba Cúc Đa (Upagupta).

  • Hình thức:  Tụng đọc Kinh, Luật và Luận, ghi chép thành sách, ngôn ngữ Pāli.
  • Nội dung:  Ghi lại thành văn đủ Tam Tạng, đặc biệt có 7 bộ Luận Thư.
  • Lý do:

1)   Thanh lọc Tăng giả (nhiều phần tử xấu và ngoại đạo trà trộn vào hàng Tăng chúng để hưởng cúng dường)

2)   Thống nhất Kinh, Luật, Luận.

  • Kết quả

1)   Tam Tạng kinh điển ghi lại thành văn và phổ biến khắp nơi

2)   Giáo đoàn Trưởng Lão Bộ hưng thịnh và hoạt động khắp Ấn Độ và nhiều nước chung quanh.

Sau lần kết tập này, Phật Giáo truyền sang Tích Lan, do chính con vua A DụcTỳ Kheo Mahinda và Tỳ Kheo Ni Sanghamittā, (Bà đem nhánh cây Bồ đề nơi Phật thành đạo sang trồng ở Tích Lan).

Về sử liệu, kỳ kết tập này chỉ ghi trong sử Nam Tông, sử Bắc Tông không có.

 
KẾT TẬP KINH ĐIỂN LẦN 4

  • Thời gian:  Sau Phật nhập diệt 500 năm (khoảng đầu thế kỷ thứ 2).  Thời gian khắc bảng đồng là 12 năm.  Được vua Ca Nị Sắc bảo trợ.
  • Địa điểm:  tại Kuṇḍalavana Vihāra ở Kashmir, hoặc tu viện Kuvana ở Jālandhara.
  • Thành phần:  500 vị Tăng đại diện cho 18 bộ phái.
  • Chủ tọa:  Ngài Thế Hữu, Phó thượng thủ: ngài Mã Minh.  Các ngài Hiếp Tôn Giả, Pháp Cứu, Giác Thiên, Diệu Âm... là các bậc cao tăng thông hiểu Tam Tạng tham dự.
  • Hình thứckết tập Tam Tạng dưới hình thức 300.000 bài tụng theo khuynh hướng Nhất Thiết Hữu Bộ.
  • Nội dung ghi lại:

           1)   100.000 bài tụng chú thích Kinh tạng.

           2)   100.000 bài tụng giải thích Luật tạng.

           3)   100.000 bài tụng giải thích Luận tạng.

  • Lý do: thống nhất giáo lý Phật giáo sau khi phân liệt thành 18 Bộ phái
  • Kết quả: Tam Tạng kinh điển được ghi lại thành văn ngôn ngữ Sanskrit (Bắc Tông).  Về phía Nam Tông, Phật giáo Tích Lan không công nhận kỳ kết tập này. Vì lẽ Trưởng Lão Bộ Tích Lan đã tổ chức kết tập lần thứ tư tại Aluvihāra hay Alokavihāra, một thôn ấp nhỏ gần làng Matale (Tích Lan) khoảng năm 83 TCN bằng tiếng Pāli trên lá buông, dưới sự bảo trợ của quan Đại thần vua Vaṭṭa Gāmani Abhaya.  Cuộc kết tập này gồm 500 vị Cao tăng dưới sự chủ tọa của Đại Đức Rakkhita.

Từ đây Phật giáo có hai loại:

1)   Hệ Pāli: Nam Tông hay Nguyên Thủy

  •  Kinh Tạng Nikāya 5 bộ
  •  Luật Tạng Pāli 5 bộ
  •  Luận Tạng Pāli 7 bộ

2)   Hệ Sanskrit: Bắc Tông hay Phát Triển.   

  •  Kinh Tạng A Hàm (Āgama) 5 bộ
  •  Luật Tạng Sanskrit 5 bộ
  •  Luận Tạng Sanskrit 7 bộ

         Nội dung và hình thức Tam Tạng của hai hệ có khác nhau đôi chút.

 

II. PHÂN LIỆT BỘ PHÁI

Sau kỳ kết tập kinh điển 2, giáo đoàn đã phân chia thành 2 bộ phái: Trưởng Lão Bộ (hay Thượng Tọa Bộ) và Đại Chúng Bộ, do 2 sự việc:

1)   10 điều phi pháp của nhóm tăng Bạt Kỳ (theo Nam Tông)

2)   Ngũ sự về A La Hán do ngài Đại Thiên nêu lên (theo Bắc Tông)

Từ hai bộ phái này, trong vòng 200 tới 400 năm sau Phật nhập diệt, tiếp tục nảy sinh ra 18 hoặc 20 – 24 – 34 bộ phái, trong số đó hoạt động mạnh nhất là Thượng Tọa BộNhất Thiết Hữu Bộ.

Hệ kinh điển Pāli do Thượng Tọa Bộ kết tập

Hệ kinh điển Sanskrit do Nhất Thiết Hữu Bộ kết tập

  1. 1.   NHỮNG NGUYÊN NHÂN HÌNH THÀNH BỘ PHÁI

1) Vì không có giáo hội trung ương.

2) Địa lý, khí hậu các nơi không giống nhau.

3) Tình hình sinh hoạt tâm lýsinh lý giữa già và trẻ khác nhau.

4) Giáo đoàn bị hoàn cảnh lịch sử chi phối, khi được nâng đỡ, khi bị đàn áp.

5) Quan điểm, cách nhìn khác nhau qua mức độ chứng ngộ của các vị đứng đầu bộ phái.

 

  1. 2.   LỢI ĐIỂM CỦA SỰ PHÂN LIỆT

Phân liệt là sự chia rẽ, tuy không hay, không được tán thán, cũng có những lợi ích lớn về sau

1)   Các bộ phái có chủ trương, đường lối riêng, đưa đến luận chiến (tranh luận) qua lại với nhau.  Nhờ đó Kinh, Luật, Luận được giải thích rộng rãi dưới nhiều hình thức văn chương, thi kệ, triết học, qua các Luận Sư nổi tiếng, làm cho kho tàng Phật pháp được sáng tỏ, phong phú, đồ sộ.

2)   Mặc dù chỉ trích, phê bình lẫn nhau, các bộ phái vẫn coi nhau là con Phật. Ngài Nghĩa Tịnhgiáo lý của Phật như cây gậy vàng gãy làm 18 khúc, mỗi khúc đều có căn bản giáo pháp.  Dù chia ra nhiều bộ phái, tinh hoa Phật pháp vẫn không thay đổi.

 

  1. 3.   HÌNH THỨC CỦA SỰ PHÂN LIỆT

Bất đồng với nhau về chủ trương, đường lối trong việc ứng dụng lời Phật dạy, các vị đứng đầu một số tăng sĩ tách rời khỏi giáo đoàn lập một giáo đoàn khác.

Hoặc một nhóm tăng sĩ ở địa phương tự mình thành lập một bộ phái riêng.

Nhiều bộ phái ly khai khỏi Trưởng Lão Bộ như: Nhất Thiết Hữu Bộ, Chính Lượng Bộ v.v... đều nổi tiếng.

 

  1. 4.   TIẾN TRÌNH PHÂN LIỆT

Sau Phật nhập diệt 100 năm, do việc 10 điều phi pháp hoặc do Ngũ sự, giáo đoàn chia thành 2 bộ phái đầu tiên là Thượng Tọa BộĐại Chúng Bộ.

Thượng Tọa Bộ (thế hệ già) có khuynh hướng bảo thủ, tôn trọng truyền thống.

Đại Chúng Bộ (hế hệ trẻ) có khuynh hướng cấp tiến, lấy lý tưởng làm căn bản.

 

Thượng Tọa Bộ về sau chia thành 10 bộ phái là:

1)   Nhất Thiết Hữu Bộ

2)   Độc Tử Bộ

3)   Pháp Thượng Bộ

4)   Hiền Vũ Bộ

5)   Chính Lượng Bộ

6)   Mật Lâm Bộ

7)   Hóa Địa Bộ

8)   Pháp Tạng Bộ

9)   Ẩm Quang Bộ

10) Kinh Lượng Bộ

       Đại Chúng Bộ lần lượt phân chia thành 8 bộ phái

1)   Nhất Thuyết Bộ

2)   Xuất Thế Bộ

3)   Kê Dận Bộ

4)   Đa Văn Bộ

5)   Thuyết Giả Bộ

6)   Chế Đa Sơn Bộ

7)   Tây Sơn Trụ Bộ

8)   Bắc Sơn Trụ Bộ

 

Sự phân liệt xảy ra lần hồi trong nhiều năm.  Những bộ phái nào có đường lối chủ trương đúng chánh pháp thì được dài lâu.  Trái lại, tự đào thải.

 

  1. 5.   HẬU QUẢ CỦA SỰ PHÂN LIỆT

Thượng Tọa Bộ khác với Đại Chúng Bộ.

Hệ Nam Tông khác với hệ Bắc Tông.

Hệ Pāli (Nam Tông) gồm có: Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt, Lào, Việt Nam...sinh hoạt tôn giáo theo truyền thống cũ, gần gũi nhau, có qui củ hơn.  Tuy không nói cùng một thứ tiếng, nhưng tất cả cùng đọc tụng kinh tạng tiếng Pāli.

 

Hệ Sanskrit (Bắc Tông) gồm có Trung Hoa, Mông Cổ, Tây Tạng, Triều Tiên, Nhật, Nepal,  Việt Nam...sinh hoạt cởi mở, phóng khoáng, đa dạng và hòa nhập vào các địa phương dễ dàng hơn.

 

Dù bị phân liệt thành nhiều bộ phái, nền văn học, triết học, luận lý và phương pháp tu tập của Phật Giáo vẫn giữ nguyên bản sắc, tuy rằng đã trở nên đa dạng, phong phú, theo nguyên tắc tùy duyên bất biến của nhà Phật.

 

III. A TÌ ĐẠT MA

1)  Ý Nghĩa: A Tì Đạt Ma (P: Abhidhamma, S: Abhidharma) được nhiều học giả Trung Hoa dịch nghĩa là: đại pháp, thắng pháp, vô tỉ pháp, vi diệu pháp.

Đây là Pháp được các luận sư Nam Tông, cũng như Bắc Tông giảng rộng nghĩa lời Phật dạy trong Kinh và Luật, làm nổi lên những nét đặc biệt, tinh hoa của của Kinh và Luật.

 

Nó vạch ra lý tưởng thánh thiệncon đường tâm linh thông qua thực hành đưa đến cứu kính giác ngộgiải thoát.  Phần lớn các luận sư xoáy vào sự khai triển các pháp Tứ Đế, Bát Chánh Đạo, Thập Nhị Nhân Duyên, Chân Như, Không, Huyễn.

Nó chỉ ra nguyên nhân hiện tượng thế gianDuyên sinh, không có đấng thần linh nào tạo ra.

 

Tinh túy của A Tì Đạt Ma là các pháp thế gian do duyên sinh mà có, vì vậy, không có thực chất tính.  Do duyên sinh nên bị chi phối bởi qui luật sinh, trụ, dị, diệt (loài vô tình) hay sinh, lão, bệnh, tử (loài hữu tình).  Thế nên các pháp thế gianvô thường, vô ngã, không (thực chất tính).  Thấy rõ, biết rõ như vậy, tâm không dính mắc. Tâm không dính mắc đưa đến giải thoát.  Và Niết bàntrạng thái thanh tịnh của tâm.

 

2)  Thành phầnA Tì Đạt Ma được lập thành trong 5 nhóm:

  1. Đạo đức học
  2. Tâm lý học
  3. Luận lý học
  4. Triết học
  5. Siêu hình học

 

IV. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH A TÌ ĐẠT MA

Hai lần kết tập kinh điển đầu 1 và 2 chỉ có Kinh và Luật.  Kể từ lần kết tập 3, sau sự hình thành các bộ phái mới có thêm tạng Luận.  Từ đó kinh điển có đủ 3 tạng: Kinh, Luật, Luận, gọi là Tam Tạng Kinh Điển.

Hệ Pāli (Nguyên Thủy) có 7 bộ Luận.

1)   Pháp Tập Luận.

2)   Phân Biệt Luận.

3)   Giới Thuyết Luận.

4)   Nhân Thi Thiết Luận.

5)   Song Luận.

6)   Phát Thú Luận.

7)   Luận Sự.

Hệ Sanskrit (Phát triển) cũng có 7 bộ Luận

1)   A Tì Đạt Ma tập dị môn túc luận.

2)   A Tì Đạt Ma pháp uẩn túc luận.

3)   Thi Thiết túc luận.

4)   A Tì Đạt Ma thức thân túc luận.

5)   A Tì Đạt Ma giới thân túc luận.

6)   A Tì Đạt Ma phẩm loại túc luận.

7)   A Tì Đạt Ma phát trí luận.

Sau khi các bộ Luận này được kết tập, trường phái sớ giải lại ra đời.  Đó là bộ Đại Tì Ba Sa Luận do 500 Trưởng Lão kết tập tại Ca Thấp Di La dưới triều vua Ca Nị Sắc.  Và nhiều bộ luận nổi tiếng khác ra đời như:

1)   A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận (bộ luận căn bản của Câu Xá Tông).

2)   A Tì Đat Ma Câu Xá Thích Luận: hai bộ này do ngài Thế Thân soạn.

3)   A Tì Đàm Tâm Luận: do ngài Pháp Thắng soạn.

4)   A Tì Đàm Tâm Luận Kinh: do ngài Ưu Bà Thiên Đà (Upasanta) sáng tác.

5)   Thành Thật Luận do ngài Harivarman soạn.

6)   A Tì Đạt Ma Pháp Yếu: do ngài A Nâu Lâu Đà soạn.

Ngoài ra còn có những Thánh điển Pāli ngoài Tam tạng như:

1)   Đảo Sử: ghi chuyện Phật đản sinh, lịch sử Trung Ấn, sự phân liệt Trưởng Lão Bộ nguyên thủy ra 18 bộ phái khác nhau, sự truyền Phật giáo vào Tích Lan bắt đầu từ Tỳ kheo Mahinda và lịch sử Tích Lan đến triều đại vua Mahāsena.

2)   Đại Sử do ngài Mahānāma ghi lại những biến cố lịch sử có nhiều chi tiết hơn Đảo Sử.

3)   Tiểu sử do ngài Dhammkitti và nhiều vị khác ghi lại nhiều thời kỳ khác nhau của Phật Giáo Tích Lan đến thế kỷ 18 dương lịch.

4)   Đại Giác Sử do ngài Upatissa ghi.

5)   Milindapañhā:  (Những câu hỏi của vua Mihinda hay Na Tiên Tỳ Kheo kinh), trình bày sâu sắc những vấn đề siêu hình, đạo đức, luân hồi, tri thức, tâm lý học Phật giáo, dưới hình thức hỏi đáp, hình thành khoảng 150 năm TCN.

6)   Giải Thoát Đạo do ngài Upatissa soạn vào đầu thế kỷ thứ 1 bằng Pāli.

7)   Thanh Tịnh Đạo do ngài Phật Âm (Buddhaghosa) trước tác tại Tích Lan, thế kỷ 5.

8)   Sớ giải về Luật, cũng do ngài Phật Âm soạn.

 

KẾT LUẬN

Qua lớp 1 Tâm Lý Học Phật Giáo, về 3 chủ đề: Kết tập kinh điển, Phân liệt bộ phái, và A Tì Đạt Ma, con rút ra được những luận điểm sau:

1)   Khi sắp nhập diệt, Đức Phật có di chúc lại ngài Anan: “Hãy tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, hãy nương tựa vào chính mình, đừng nương vào gì khác...Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, đừng nương tựa vào một gì khác...”

 

Đức Phật đã từ bỏ cuộc sống đế vương, từ bỏ gia đình thân thuộc, dấn thân đi tìm chân lý, sống cuộc sống vô cùng khổ hạnh, đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, và đi hoằng pháp độ sanh suốt cả cuộc đời.  Đến giây phút chót, Đức Phật còn để lại lời di giáo quí báu cho chúng sanh.  Thật là một đức Từ bi vô lượng.  Chúng con xin thành tâm đảnh lễ Phật bảo.

 

2453 năm sau, chánh pháp vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và phát huy sáng rỡ là nhờ Tam Tạng kinh điểnTam Tạng kinh điển lưu truyền đến nay giúp tất cả Phật tử và chúng con thấy ánh sáng vi diệu Phật pháp, bước ra khỏi cơn mê u tối.  Chúng con rất biết ơnthành tâm đảnh lễ Pháp bảo.

 

Nhờ những lần kết tập, dưới nhiều hình thức đọc tụng, ghi lại thành văn, khắc trên bảng đồng, trên đá, v.v... mà Tam Tạng kinh điển được duy trì.  Thật là những công trình vĩ đại qua mấy ngàn năm, do công lao của chư Tổ Sư, Luận Sư và nhiều người con Phật vô danh khác.  Chúng con xin thành tâm biết ơn các ngài và đảnh lễ Tăng bảo.

 

2)   Phật lại nói: “Những ai sau khi ta diệt độ, tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa vào chính mình, không nương tựa vào gì khác.  Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa... Những vị ấy là những vị tối thượng trong hàng Tỳ kheo của ta, nếu vị ấy thiết tha học hỏi.”

 

Chúng con học Thiền là pháp môn độc hành độc bộ, là tự mình nương tựa vào chính mình.  Chúng con cũng thiết tha học hỏi.  Nhưng chưa phải là hàng tối thượng, chúng con còn nhờ Thầy dẫn dắt lúc sơ cơ.  Nhờ Thầy chúng con đi đúng chánh pháp, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa.  Công ơn dẫn dắt của Thầy đối với chúng con rất sâu dày. Chúng con xin đảnh lễ Thầy để tỏ lòng tri ân Tôn Sư.  

 

3)   Có những nguyên nhân xem như không hay, không khả hỷ, lại đem đến kết quả tốt về sau như:

  • Tỳ kheo Subhadda phát ngôn vô pháp đưa đến kết tập kinh điển lần 1.
  • 10 điều phi pháp đưa đến kết tập kinh điển lần 2 và phân liệt bộ phái
  • Việc thanh lọc Tăng giả đưa đến kết tập kinh điển lần 3.
  • Việc phân liệt thành 18 bộ phái đưa đến kết tập kinh điển lần 4.

 

Do nhiều lần kết tậpkinh điển được hệ thống hoá và duy trì đầy đủ.   Như vậy không phải cứ nhân xấu đưa đến quả xấu.  Còn phải kể đến yếu tố duyên.  Nên nói mọi việc mọi sự do duyên sinh, không do may rủi hay thần linh định đoạt.  Thuyết duyên sinh của nhà Phật dễ nghe, dễ chấp nhận hơn thuyết định mệnh và thuyết ngẫu nhiên (may rủi).  Còn thuyết do ý chí con người quyết định, nếu đúng thì Phật giáo đã bị tiêu diệt hồi thế kỷ 10 và 12, sau khi bị đàn áptriệt tiêuẤn Độ

 

4)   Ngày xưa Kinh và Luật được truyền tụng bằng miệng, bằng lời, qua mấy trăm năm, không bị tam sao thất bản, quả thậtđiều kỳ diệu.  Đến khi Tam tạng được lập thành văn, viết thành chữ, khắc lên bảng đồng, lên đá...Phật giáo bị đàn áp khốc liệt trong nhiều thế kỷ.  Chùa chiền, bảo tháp bị san bằng, kinh sách bị phá hủy, đến nay nguyên bản không còn lại bao nhiêu.  Vậy mà Tam Tạng kinh điển đến ngày nay, thật phong phú, dồi dào, được in thành sách, bằng nhiều ngôn ngữ, và xuất hiện cả trên Internet...lại là một điều kỳ diệu thứ hai.  Vì sao?

  • Phật giáo là đạo giác ngộ.  Nhờ Phật pháp nhiều người được giác ngộ.  Nhiều người giác ngộ làm Phật pháp càng thêm sáng tỏ.
  • Phật giáo là đạo giải thoátĐức Phật tuyên bố: “Giống như nước các đại dương cùng có chung một vị mặn, đạo của Như Lai tuy nhiều phương tiện, cũng có chung một vị giải thoát.”   Ngày nào chúng sinh còn khổ đau, chúng sinh còn cầu đạo giải thoát.

 

5)   Phật giáo bị phân liệt, chẳng những chia thành 2 hệ: Pāli và Sanskrit, còn phân chia ra nhiều bộ phái, hệ phái, tông phái...không kể xiết.  Thế nhưng tất cả các phái này cùng bình đẳng tồn tại và phát huy giáo pháp theo lối riêng của mình.  Phái nào theo đúng chánh pháp thì lưu truyền dài lâu, trái lại, tự đào thải.  Không có phái nào tiêu diệt phái nào.  Dù luận chiến, tranh luận với nhau để làm sáng tỏ giáo lý, các phái vẫn coi nhau là con Phật, không tranh chấp xâu xé nhau.  Suốt hơn 2500 năm lịch sử, Phật giáo chưa từng bức hại ai.

 

6)   Thời nào Phật giáo được vua chúa yểm trợ (vua A Dục, vua Ca Nị Sắc...) Phật giáo được hưng thịnh.  Đặc biệt vua A Dục sau khi tự hối đã tàn sát quá nhiều, vua qui y Phật, và phát tâm Đại Bi, chủ trương bất bạo động, đại xá tù binh, phá nhà tù, xây bệnh xá, trường học, làm đường sá, trồng cây, đào giếng...và đối xử bình đẳng với các tôn giáo.  Cho thấy nơi nào vua chúa nhờ ánh sáng đạo Phật thức tỉnh, nơi đó có thái bình an lạc, dân chúng được hưởng phúc lợian lànhTrái lại, nơi nào vua chúa theo tín ngưỡng cực đoan, nơi đó tự do tín ngưỡng bị triệt tiêu, Phật giáo bị đàn áp, và dân chúng nơi đó làm nạn nhân của hận thù, tranh chấp, xâu xé nhau, kể cả thời khoa học tiến bộ hiện nay.

 

7)   Phật pháp gồm có hữu vi phápvô vi pháp.

Hữu vi pháp là pháp có lý luận, có tác ý, có giải thích bằng ngôn từ, là tục đế.

Vô vi pháppháp siêu lý luận, không tác ý, không thể nói ra chỉ ai tu tự kinh nghiệm, là chân đế.

 

Phải nhờ pháp hữu vi để hiểu pháp học và pháp hành, để trao đổi kinh nghiệm với nhau, nhưng nếu không vượt qua khỏi pháp hữu vi, thể nhập vào pháp vô vi, dù dụng công bao nhiêu cũng không đạt được trí tuệ tâm linh, đi đến giác ngộgiải thoát.

 

Muốn thể nhập pháp vô vi, hành giả phải đạt cái không lời, hay vô ngôn, tâm khôngTổ sư nói: “Đạo ta không lời.  Ngươi đạt được cái không lời là đạt đạo.”  Thuở xưa, đức Phật đạt được cái Như Vậy (Tathā) không thể dùng lời diễn tả.  Tiếp sau, chư Tổ dạy cái Chân Như (Tathatā) cũng nói về chỗ: Tâm Như và thể nhập Chân Như.

 

Chúng con học Thiền Tánh Không, tất cả kỹ thuật Thầy dạy cốt sao chúng con kinh nghiệm được cái không lời.  Tất cả các bạn thiền sinh của con không nhiều thì ít đều đạt kinh nghiệm quí báu ấy.  Tuy còn sơ cơ, những bước chân trên đường tâm linh của chúng con, dưới sự hướng dẫn khéo léo của Thầy, dần dần thêm vững chắc.  Vậy là Thầy hướng dẫn chúng con đi đúng chánh pháp.  Thật là một phước duyên lớn lao của chúng con được gặp Thầy.

 

Kính bạch Thầy,

 

Mặc dù Thầy không muốn mở lớp Tâm Lý Học Phật Giáo, vì nó thuần lý thuyết  Phật học, đi ngược lại Thiền là pháp vô ngôn; nhưng vì chúng con nhiều lần thỉnh cầu, Thầy vì chúng con mà mở dạy.  Bốn tháng qua rất mau.  Thời gian đó, Thầy mất bao nhiêu công lao khó nhọc để soạn bài cho chúng con.  Vì trục trặc kỹ thuật, Thầy phải soạn tới 2 lần, quả thật Thầy đã trút bao trí não, tinh thần cho chúng con.  Công ơn này, chúng con xin ghi nhớ.  Nhiều lần Thầy kêu bài học khô khan, nhàm chán, khó nuốt.  Thầy bảo ngưng lớp học.  Nhưng chúng con ai cũng một lòng xin học.  Bài học dù thuần kiến thức khô khan, với sự giảng dạy khéo léo của Thầy, chúng con đều nắm vững chủ đề, và lớp học không mấy khi vắng tiếng cười.  Khi lớp bắt đầu, số thiền sinh ghi tên là 19.  Đến nay bế giảng cũng là 19 vị, toàn là hột chắc.  Chúng con nay tạm ở nhà, sẽ thấy thiếu vắng không khí đầy thiền lạcvô ưu của lớp học.

 

Chúng con mong rằng Thầy sẽ nghỉ ngơi khỏe khoắn, hoàn tất tập 2 và 3 của bộ Tìm HiểuỨng Dụng Thiền Phật Giáo.  Ra mắt sách xong, Thầy sẽ mở tiếp lớp 2 Tâm Lý Học Phật Giáo

Kính mong Thầy hứa khả.

 

Con kính chào Thầy,

Xin kính chào quí vị.

 

Sa Di Thích KHÔNG CHIẾU

29/08/2000

 

********

 

Viết lại từ bài Tổng Kết Lớp 1 Khóa 1 Tâm Lý Học Phật Giáo, của Thầy Không Chiếu, được đăng trong Đặc San Thiền Tánh Không Số 3, Đặc San Xuân Tân Tỵ 2001, trang 114 đến 122.

DN

 

 

Bài Tổng Kết
Lớp 2 Khóa 1 Tâm Lý Học Phật Giáo

(Nhân lễ Bế giảng Lớp 2, TLHPG, ngày 30/09/2001

Không Chiếu

*********

Kính bạch Thầy,

Thưa quí vị Tăng Ni,

Thưa quan khách,

Cùng các bạn thiền sinh,

Hôm nay, nhân dịp Bế giảng Lớp 2 Tâm Lý Học Phật Giáo, con là Sa Di Thích Không Chiếu, xin tổng kết những gì chúng con đã học trong 5 tháng qua ở Lớp 2 này.

Từ ngày khai giảng, 1 tháng 5 đến nay, Thầy đã rút tỉa những tinh yếu của nền Tâm Lý Học Phật Giáo trong các Luận thư cũng như trong Giáo lý của Phật, dẫn dắt chúng con từng bước.  Chúng con cảm thấy như vào một chân trời mới lạ của khu rừng Phật học mênh mông.  Mặc dù đã nhiều lần Thầy bảo lớp TLHPG này thuần lý luận, khô khan, khó nuốt, chúng con vẫn cứ nài, xin Thầy giảng dạy.  Càng học chúng con càng thấy thú vị, bổ ích, vừa mở rộng kiến thức về Phật họcThiền học, vừa chuyển đổi nhận thức, và vừa đi sâu vào phần tâm lý trong Phật học.

Riêng phần con, con đã nhận ra và thấm ý nhiều điều làm chuyển hóa tâm con ngày càng thêm an lạc.  Con xin trình bày những bài học bổ ích trong các đề tài đã học sau:

  1. Tâm Lý Học Phật Giáo.
  2. Sự tu chứng của Đức Phật.
  3. Tâm trong đạo Phật.
  4. duyên khởi.
  5. Tùy miên.

Giờ đây, con xin tóm lược những điều chúng con đã được học để san sẻ những lý thuyết khô khan, khó nuốt cho các bạn thiền sinh.

I.TÂM LÝ HỌC PHẬT GIÁO LÀ GÌ?

Đức Phật là người đầu tiên chứng ngộ và nói lên thực tướng thế gian, trong đó con người là quan trọng.  Trong mỗi người có hai phần: thân và tâm, phần Tâm là chủ yếu.  Thông thường, tâm làm chủ thân.  Tâm là đầu mối của sinh tử luân hồi, tâm cũng là đầu mối của thoát khổ, giải thoát, tùy theo ta để cho tâm dẫn dắt hay biết làm chủ tâm.

 

Theo Phật giáo, thiện, ác, mê, ngộ, an vui hay phiền não không ngoài hoạt động của Tâm hay Tâm lý.  Ai muốn tìm đường thoát khổ, phải hiểu rõ về Tâm lý này.  Pháp của Phật nhắm vào chỉ dạy chúng ta về khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ, và con đường đưa đến diệt khổ.

 

Sau khi Phật nhập diệt, hơn 18 Bộ phái Phật giáo lần lượt hình thành trên đất Ấn.  Nền TLHPG từ đó được chư Tổ triển khai trong các Luận Thư của các ngài.  Mỗi vị Tổ nói lên những điều họ đã thu hoạch từ Giáo lý của Phật trong các Kinh.  Từ đó làm cho nền Phật học càng dồi dào và càng mở rộngTư tưởng phát triển đã bắt đầu manh nha trong hàng ngũ các Bộ phái.

 

Nói tóm lại, TLHPG nói về Tâm con người, và chỉ rõ cách điều hướng tâm từ nhiễm ô trở thành tâm thanh tịnh

 

Qua chủ đề TLHPG, con rút tỉa được hai bài học:

 

1)  Tâm, trên căn bản vốn thanh tịnhKhách trần sẽ không làm nhiễm ô nó, nếu ta biết làm chủ tâm hay không cho nó dính mắc với ngoại trần.  Khi tâm ngày càng dính mắc vào ngoại trần, ta sẽ khó thoát khỏi phiền não và bệnh tâm thể.

2)   Thầy nhắc lại nhiều cách làm chủ tâm ở các lớp Căn BảnBát Nhã.  Rốt lại có hai cách mà con thấy dễ thực tập nhất:

 + Không nói thầm (trong não) và

 + Thấy như thật.

 Dù chưa được Định sâu, qua 2 cách nói trên, ta có khả năng cắt đứt các rối loạn nội tâm mỗi khi tâm bị xúc động.

 

II. SỰ TU CHỨNG CỦA ĐỨC PHẬT

 Thầy đã chỉ ra bốn giai đoạn tu chứng của Đức Phật.

1)  Giai đoạn 1:  Sự tỉnh ngộ lần thứ nhứt: quyết tâm xuất gia tầm đạo.

Khi còn là Thái Tử, nhân đi ra 4 cửa thành, thấy 4 cảnh: già, bệnh, chết và một tu sĩ an nhiên tự tại, ngài tỉnh ngộ.  Ngài thấy qui luật sanh lão bệnh tử không một ai thoát khỏinhận ra chỉ có con đường tu hành mới đưa tới đắc đạo giải thoát.  Sự tỉnh ngộ này là nhân tố khiến ngài quyết tâm xuất gia tìm đạo.

 

2)  Giai đoạn 2: học 2 pháp thiền của 2 vị thầy Yoga.

  • Một là Vô sở hữu xứ định với thầy Ālāra Kālama.
  • Hai là Phi phi tưởng xứ định với thầy Uddaka Rāmaputta.

Mặc dù ngài đạt được mức định ngang với thầy, được thầy mời ở lại, nhưng thấy rằng 2 pháp Thiền Yoga đó không đưa đến chứng ngộ, ly tham, an tịnh, thượng trí, giác ngộNiết bàn, ngài từ bỏ hai pháp đó.

 

3)  Giai đoạn 3: tu khổ hạnhép xác.

Đây là thời kỳ ngài tự hành hạ xác thân trong 6 năm về ăn uống, ngủ nghỉ, không áo quần, nín thở, rất khốc liệt mà xưa nay chưa ai làm được như ngài.  Kết quả ngài kiệt sức, ngất xỉu. Nhờ nhận bát sữa của cô bé chăn cừu, ngài tỉnh lạiNhận ra sự khổ hạnh, đày đọa thân xác là sai lầm, không đưa đến giác ngộ, ngài ăn uống trở lại và chọn con đường tu tập Trung đạo.  Khi ấy các bạn đồng tu tưởng ngài lo lợi dưỡng, bỏ đi. 

 

4)  Giai đoạn 4: Tỉnh ngộ lần thứ 4: tu tập thiền định.

Sau khi nhận ra sự sai lầm của khổ hạnh, ngài ăn uống trở lại bình thường.  Nhớ lại khi còn thơ ấu, trong dịp lễ Hạ Điền, một mình ngồi dưới gốc cây jambu, ngài điều hòa hơi thở và được an tịnh nội tâm.  Nay ngài áp dụng lại phương pháp thở đó để đi vào Thiền định.

 

Đến sông Ni Liên Thiền, ngài phát tâm dũng mãnh với lời nguyện: “Dù cho da, gân và xương cũng như thịt và máu của ta có khô cằn, nếu ta không đạt được giác ngộ tối thượng, ta sẽ không rời khỏi chỗ này.”  Chọn gốc cây pipphala (sau gọi là cây Bồ Đề) làm chỗ an trú, ngài tu Thiền Định 49 ngày đêm.  Ngài nhập sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, đạt trạng thái thân tâm bất động, vào Kim Cang Định, ý thức hoàn toàn ngưng động, mọi lý luận không khởi. Liên tiếp trong 3 canh, vào cuối tuần lễ thứ tư, ngài đắc được Túc mạng minh, Thiên nhãn minhLậu tận minh.  Ngài đắc quả vị Phật Chánh Đẳng Giác.

 

Nơi bài tiến trình tu chứng này con rút ra 5 bài học:

  1. Trước hết phải có sự tỉnh ngộ về vô thường, về khổ, và về sanh tử luân hồi mới có phát tâm tìm đạo.
  2. Phải dứt khoát lìa bỏ lối tu sai lầm, không đưa đến mục đích thoát khổ, giác ngộgiải thoát.
  3. Tuy rằng tu khổ hạnh không đưa đến giác ngộ, nhưng nhờ nó, ngài chiến thắng được tự ngã và làm chủ được dục lạc.
  4. Cần phải phát tâm dũng mãnh mới đi ngược dòng đời, tìm đường trở về nguồn.  Thiếu quyết tâm, ta sẽ giãi đãi hay dễ dàng bỏ cuộc.
  5. Nhưng căn bản là phải có hướng tu đúng, và có pháp thực hành đúng.  Theo con, chỉ có con đuờng tu tập Thiền định của Phật đã thành đạo và chỉ lại mới đưa đến kết quả vô lậu, thoát khổ, giác ngộgiải thoát.  Có Định mới gột sạch lậu hoặc/tập khí, nhân của sanh tử luân hồi.

 III. TÂM TRONG ĐẠO PHẬT

Chữ Tâm trong đạo Phật có thể hiểu 2 cách: theo ngữ nghĩa và theo phân tích.

  1. Theo ngữ nghĩa có 3 từ:
  2. Citta: là tâm, sự nhận biết đối tượng, sự biểu lộ thái độ, tình cảm, tư tưởng, nhân cách con người.
  3. Mano hay Manas: là cái ý, sự suy nghĩ tính toán, ý đồ, tư duy biện luận, trí năng suy luận, là sự nói thầm và sự đối thoại thầm lặng.
  4. Viññāṇa là cái thức, ý thức phân biệt, so sánh, tính phúc trình, ngã ý thức.
    1. Hiểu theo nghiã phân tích, Tâm là Thọ, Tưởng, Hành và Thức.
    2. Thọ: là cảm thọ, gồm có ưa, ghét, không ưa, không ghét, khi căn tiếp xúc với trần.  Thọ là đầu mối của sanh tử, cũng là đầu mối của giải thoát.  Người nào làm chủ cảm thọ sẽ tự tại ra đi.
    3. Tưởng: là tri giác.  Tưởng khởi lên tâm ngôn, dệt thành mạng lưới khái niệm.  Chủ thể của Tưởng là tự ngã.  Làm chủ được Tưởng hay “Tưởng không chỗ nương tựa” thì tâm thanh tịnh.
    4. Hành: là những phản ứng của tâm và tâm sở, gồm tâm hành (khởi ý), ngôn hành (nói thầm) và thân hành (hơi thở).  Hành tạo nghiệp.  Làm chủ hành, làm chủ được nghiệp.
    5. Thức là ý thức phân biệt, là dòng tâm thức lưu chuyển như dòng nước chảy không ngừng, khi sinh ra tới khi chết. Rồi nó trở thành tử thức hay thức tái sinhĐạt được thức thanh tịnh hay Bạch tịnh thức sẽ dứt luân hồi.

Tóm lại, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là nhân của sanh tử luân hồi, cũng là nhân của giải thoát, Niết bàn

Những bài học con thu hoạch được trong bài Tâm:

  1. Làm chủ Tâm sẽ làm chủ được thân, đỡ bệnh tật ốm đau.
  2. Nếu không kịp tu giải thoát, hãy cố gắng tu làm nhân chứng, đạt được thân đau, tâm không đau, sẽ tỉnh táo khi ra đi.
  3. Phật diễn tả cùng một cái Tâm mà có 2 mặt/ 2 trạng thái: vọng tâmchân tâm, ví như hồ nước đục và hồ nước trong.  Đục là khổ, trong là an nhiên.  Đó là hình ảnh cụ thể nhứt.  Nếu khéo tu pháp không nói thầm, thấy như thật, tâm vọng sẽ trở thành chơn, tâm rối loạn sẽ trở nên thanh tịnh.

IV. LÝ DUYÊN KHỞI:

Sau khi đạt Lậu tận minh, Phật thấy như thật: Đây là khổ, đây là nguyên nhân khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa đến diệt khổ... Phật thiết lập pháp Tứ Đế.

Sang tuần lễ thứ 5, ngài chiêm nghiệm lại những gì đã chứng ngộnhận ra chân tánh của các hiện tượng thế gian do nhiều nhân và duyên hòa hợp thành.  Phật thiết lập thuyết Duyên KhởiDuyên Sinh về con ngườivũ trụ thật rõ ràng và sâu sắc.

Dù Phật có ra đời hay không, vạn vật trong vũ trụ vẫn vận hành theo Lý Duyên khởi, Duyên sinh.  Nhưng Phật là người đầu tiên đã chứng ngộtuyên bố về thuyết Tương quan nhân quả này.

Cái trước làm phát sanh cái sau là Duyên khởi (Paticca Samuppāda).

Cái trước diệt làm cái sau sinh là Duyên sinh (Paticca Samuppana).

duyên khởi, duyên sinh thật sâu xa, phức tạp.  Để giản dị, dễ hiểu, Phật nói:

Cái này có, cái kia có.  Cái này không, cái kia không

Cái này sinh, cái kia sinh.  Cái này diệt, cái kia diệt.

Thuyết tương quan nhân quả này chứng minh rằng tất cả các hiện tượng thế gian: tâm, người, cảnh, vật, sự kiện, sự việc... đều do nhiều nguyên nhân, điều kiện, hay duyên họp lại mà thành, mà trụ, mà hoại, trở về không.  Từ lý duyên khởi, duyên sinh này, Phật đưa ra thuyết Mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên thức... và thuyết Hoàn diệt: vô minh diệt hành diệt, hành diệt thức diệt... để chỉ ra toàn bộ nguyên nhân sanh tử luân hồicon đường giải thoát.  Những vị nào thông suốtthể nhập thuyết Mười hai nhân duyên sẽ đắc quả Duyên Giác (Giác ngộ về lý nhân duyên).

Bốn đặc tính của Lý Duyên Khởi:

1)  Như tánh hay Như thật tánh: là tánh nó chơn thật như vậy.

2)  Bất hư vọng tánh hay Bất ly như tánh: là tánh nó không lìa như vậy.

3)  Bất dị như tánh: là tánh nó không khác như vậy.

4)  Y duyên tánh: là nó có điều kiện tánh riêng biệt như vậy.

 

Những đặc tính này thuộc phạm vi siêu lý luận. Vị nào chứng ngộ sẽ có pháp trí, trí huệ thấy biết như thật chân tánh hiện tượng thế gian và qui luật vận hành của nó.

Trải qua hơn 2500 năm, ngày nay chủ đề Duyên Khởi, Duyên Sinh đã thâm nhập tâm người Phật tử. Tất cả chúng ta đều công nhận rằng không có vật nào sinh ra, việc nào xảy ra mà không có nguyên nhân. Tất cả do duyên sinh nên không có bàn tay Thượng đế đặt để.

 

Từ Lý Duyên Khởi, con rút tỉa 3 bài học sau:

 

1)  Từ nhân sinh quả, muốn giải quyết quả Khổ hay Luân hồi sinh tử phải giải quyết tại gốc nhân là Nghiệp hay Lậu hoặc.

2)  Do nhân Bị sanh mà sanh ra đời. Do tu tập đạt cái Vô sanh sẽ được giải thoát. Như vậy ta có thể chuyển nghiệp hay định mạng.

3)  Điều mà con tâm đắc về Lý duyên khởimọi việc đều có nhân duyên sâu xa. Nếu thấy nó như thật hay không nói thầm về nó sẽ không bị dính mắc.

Dù có chuyện gì xảy ra đi nữa, vẫn an nhiên tự tại trước mọi tình huống.  Đó là tu tập thành nhân chứng, thân đau, tâm không đau.

Tuy chưa đạt được mức đó, con đã giảm bớt rất nhiều dính mắc và vướng mắc đối với sự việc xảy ra cho con.

 

V.TÙY MIÊN

Tùy miênhiện tượng tâm lý dính mắc, phiền não ngấm ngầm dây dưa trong nội tâm.  Nó rất sâu kín, nhiều khi ta không tự biết.  Nó độc hại hơn kiết sử (là những sợi dây trói buộc tâm) hay lậu hoặc (là những đam mê ghiền nghiện). Tùy miên giết lần giết mòn con người; có khi nó bùng nổ lên, khiến người trở nên điên loạn, hại người, giết người một cách lạnh lùng.

Tùy miên không phải tâm hay tâm sở, mà là bệnh tâm lý, ở những người rất tỉnh táo, khôn ngoan. Khi căn tiếp xúc với trần, có vấn đề gì mà không giải quyết được, sẽ trở thành tùy miên. Hầu hết chúng ta ai cũng có một vài vấn đề ray rứt, dính mắc, ngấm ngầm, nều không giải tỏa được, sẽ thành tùy miên.

Muốn giảm bớt hay chấm dứt tùy miên, nếu giải quyết được tận gốc vấn đề thì tốt, nếu không, phải thấy biết như thật, hay không nói thầm về nó, tâm sẽ không dính mắc. Tu tập lâu dần, tánh giác hiển lộ, không còn suy tư tính toán, ý thức không khởi lên, lần hồi tùy miên bị gột sạch.

Người không tu tập hay tu không đúng cách sẽ bị các tùy miên ray rứt âm thầm ngày đêm, sanh các bệnh tâm thể. Tâm dồn nén, có dịp sẽ bùng nổ dữ dội, gây ra tội ác.

Bài học con nhận ra là:

         Quá khứ đã đi qua,

         Tương lai thì chưa đến,

         Sống với cái hiện tại

         Bây giờ và ở đây.

         Thấy, nghe, biết như thật,

         Tùy miên, thiên chấp tiêu.

Kính bạch Thầy,

Thưa quí vị,

Cùng các bạn thiền sinh,

Năm tháng qua, thời gian qua mau.  Pháp của Phật mà Thầy giảng dạy thật quá cao siêu vi diệu.  Chúng con học nhiều nhưng thấm vào máu chẳng được bao nhiêu.

Tuy nhiên đã có thuốc chữa bệnh, ai siêng tập thì mau lành. Con xin thay mặt 20 thiền sinh lớp 2 TLHPG kính dâng lên Thầy lòng biết ơn chân thành của chúng con. Với những gì được Thầy trang bị cho, chúng con sẽ vững bước trên đường tâm linh cao thượng.  Tuy nhiên, lòng chúng con hằng khao khát đưọc nghe Pháp bảo, mong rằng sẽ có duyên được tiếp tục học Lớp Cao Cấp 3 vào năm 2002.

Con kính bái,

THÍCH KHÔNG CHIẾU

 

Viết lại từ bài Tổng Kết Lớp 2 Khóa 1 Tâm Lý Học Phật Giáo, của Thầy Không Chiếu, được đăng trong Đặc San Thiền Tánh Không Số 4, Đặc San Xuân Nhâm Ngọ  2002, trang 61 đến 65.

DN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 328)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 126)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 365)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 238)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 258)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 376)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 273)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 449)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 586)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 576)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 746)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 458)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 423)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 439)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 558)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 498)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 779)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 521)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 796)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 555)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1230)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 700)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 939)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 782)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 892)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 862)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 718)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 903)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 888)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 815)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 853)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 872)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 741)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1198)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1059)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1041)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1830)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1314)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1291)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1754)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1732)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 1911)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
69,256