HỘI THIỀN TÁNH KHÔNG TRUNG ƯƠNG

Ta Phàm PhuVô Ngã

02 Tháng Sáu 20188:48 SA(Xem: 10560)

 

 

 

 TA PHÀM PHUVÔ NGÃ

 Nguyên bản Anh Ngữ:  WORLDLY SELF and NO SELF

 do

 Thích Không Triệt

(David B. Johnson, Ph.D.)

 và

Triệt Minh

(Helene Phan-Thanh)

  2018

 Honolulu, Hawaii

 
Bản dịch Việt Ngữ do:

 Như Lưu

 Adelaide, Australia



MỤC LỤC

 

CẢM TẠ
DẪN NHẬP
CÁI TA LÀ GÌ?
KHÁI NIỆM VỀ TA
TỰ NGÃ
Sự trống rỗng của cái TA
Tâm phàm phu và cái ta 
Khổ là gì?    
              Vô thường và khổ
              Đau khổ và phát triển tâm linh         
              Ngũ uẩn và khổ
Cái ta liên hệ ra sao với khổ Đau?
              Buông bỏ đau khổ
Cái ta và sự nhận biết – Ai biết và biết cái gì?
              Nhận biếtsuy nghĩ
              Nhận biết tinh thuần – Không có chủ thể/khách thể, vô ngã
              Vượt qua cái ta phàm phu dính vào hiện tượng thế gian
              Vô ngã, hết khổ đau        
sao kinh nghiệm cái biết không lời có thể thay đổi cuộc đời của ta khi ta còn sống trên thế giới này
Đề nghị đọc thêm

 

Thầy Thích Không Triệt
Thầy Thích Không Triệt

 

CẢM TẠ

 

Các tác giả bài này mong muốn bày tỏ lòng tri ân Thiền Sư Thích Thông Triệt đã dẫn dắt và truyền Phật pháp cho chúng tôi. Các sách và bài viết của Thầy đã là động cơ thúc đẩy chúng tôi viết bài này. Chúng tôi tri ân Thầy đã đọc bài này và giúp chúng tôi ý kiến để bài này được hoàn hảo hơn.

 

Chúng tôi cũng cảm ơn thiền sinh Như Lưu đã dịch bài này ra Việt Ngữ. Nhờ vậy mà Thầy Thích Không Đăng đã đọc được bản dịch cho Thiền Sư Thích Thông Triệt nghe, và do đó Thầy Thích Thông Triệt đã góp ý được cho chúng tôi.

Sau cùng, chúng tôi xin cảm tạ tăng đoànthiền sinh Thiền Tánh Không đã hỗ trợ việc biên sọan bài viết này.

Chúng tôi chân thành cáo lỗi cùng quý bạn đọc nếu bài viết có điểm gì sai lầmchúng tôi hoan hỷ đón nhận mọi ý kiến cải thiện.

 

DẪN NHẬP

 

Các tác giả đã trình bày nội dung bài viết này trong nhiều buổi nói và chia xẻ Pháp với nhiều nhóm người tại Honolulu, Hawaii và Việt Nam. Dù bài này viết bằng Anh Ngữ, nhưng nội dung đã được chúng tôi trình bày bằng Anh Ngữ và Việt Ngữ, tùy theo cử tọa. Trong bài này, chúng tôi mong muốn trình bày những điều có thể coi là cốt lõi của Phật pháp. Những điều này cũng rất cần thiết để chúng ta hiểu những điểm căn bản của giáo lýĐức Phật đã để lại cho nhân loại. Đó là Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo tức con đường thoát khổ, Quy Luật Vô Thường, Lý Duyên Khởi và sự hiện thực của Vô Ngã.

 

Chủ đề của bài này là cái ta và sự liên hệ giữa cái ta và đau khổ. Hai điểm này thường không được xếp cùng với nhau, nhưng chúng tôi sẽ trình bày sự hình thành của cái ta, và song song là sự hình thành của khổ. Trong bài này chúng tôi đã bắt buộc phải dùng ngôn ngữ, tuy chúng tôi hiểu rằng con đườngchúng ta phải noi theo để khám phá ra sự thực phải vượt ra ngoài phạm vi của ngôn ngữ và phải được chứng nghiệm.

 

Cái ta phàm phu được hình thành qua các giao tế xã hội mà ta có từ lúc sinh ra, cộng với tự ngã mà chúng ta mang theo từ các kiếp trước. Do đó cái ta được sinh ra và có tính chất vô thường, nó cũng là một hiện tượng thế gian lúc nào cũng thay đổi và huyễn hóa. Còn tự ngã được hình thành qua hành động và thuộc di sản nghiệp mà chúng ta mang theo từ đời này sang đời khác. Cái ta và tự ngã hợp thành ý niệm của ta về ta, và cách chúng ta kinh nghiệm cuộc đời này ra sao. Cuộc sống của ta trong cuộc đời này và các cuộc đời trước gặp nhiều thách đố, trở ngại và giới hạn khiến ta không được những gì mong muốn, do đó gây nên bất mãn, bất toại nguyện, không hạnh phúc v.v., đó là những gì được gọi chung là khổ. Khổ do đó có liên hệ với cái ta phàm phu và tự ngã, nó cũng không thường hằng và không nội tại trong chân tánh của chúng ta. Khi chúng ta nhận ra điều này, ta có thể rũ bỏ các trói buộc của cái ta và tự ngã để thoát khổ. 26 thế kỷ về trước, Đức Phật đã dạy chúng ta làm sao đạt được điều này.

  

CÁI TA LÀ GÌ, KHÁI NIỆM VỀ TA

 

Cái “Ta phàm phu” có thể gọi một cách chính xác hơn là “khái niệm về ta”. Nó là con ngườichúng ta nghĩ hay cảm nhận ta là trong cuộc đời này, dựa trên những kinh nghiệm giao tế với những người ta liên hệ, tức là qua các mối tương quan xã hội. Đây là một tiến trình khởi sự lúc sinh ra và tiếp nối suốt cuộc đời. Khái niệm về ta bắt đầu như tờ giấy trắng khi ta sinh ra. Đứa trẻ khi sinh ra không cảm thấy là nó riêng biệt với bà mẹ. Nhưng không lâu sau, nó bắt đầu nhận ra là nó riêng biệt và các nhu cầu của nó không được đáp ứng một cách tự động. Nó cảm thấy đói và khóc lên để được cho ăn. Kinh nghiệm đói là một sự khổ, một cảm nhận thiếu thốn, đòi hỏi, bất toại nguyện với tình cảnh hiện tại. Nếu cơn đói được đáp ứng bởi một bà mẹ hay người nuôi nhiều chăm chú và thương yêu hoặc bởi một bà mẹ hay người nuôi không chăm chú và bất mãn, thì đứa trẻ biết là nó được thương và do đó xứng đáng được thương hay không được thương và do đó không đáng được thương. Ngay khi còn là một trẻ sơ sinh, ta đã bắt đầu có khái niệm ta là ai, như một con người biệt lập sống trong thế giới này. Cảm nhận ta là ai ảnh hưởng cách chúng ta liên hệ với người khác, hoặc với lòng thương yêu hoặc với sự bất mãn. Điều này lại ảnh hưởng cách người khác đối xử với ta, và từ đó tiến trình dai dẳng thiết lập khái niệm về ta bắt đầu.

 

Mỗi người mà ta tiếp xúc cho ta một cảm nhận mới về cá nhân của ta dựa trên cách họ giao tế với ta. Do đó, cái “ta” thay đổi và thực sự chỉ là một ý hay một khái niệm ta thực sự là ai, vì nó dựa trên những gì ta cảm nhận về thái độ của người khác đối với ta. Ông George Herbert Mead dùng chữ tiếng Anh “me” để gọi cái nhìn khách quan này về ta. Đôi khi ta cảm thấy cách người khác đối xử với ta không khế hợp với quan niệm của ta về ta, và do đó ta chối bỏ hay chống trả không chấp nhận. Phản ứng chối bỏ hay chấp nhận cách mà người khác nhìn ta (tức là cái “me” tiếng Anh) là khía cạnh chủ quan của cái ta, cũng có thể gọi là cái “I” (tiếng Anh). Khi còn là trẻ thơ, ta chấp nhận một cách tự động và có khi vô ý thức thái độ của người khác đối với ta. Khi được người khác thương yêuchấp nhận thì ta cảm thấy thoải mái với chính mình và nghĩ là mình xứng đáng được sự thương yêuchấp nhận kia. Ngược lại, khi không được người khác thương yêu hay bị chối bỏ thì ta nghĩ là không xứng đáng hay thiếu xót gì đó hay bị hư hỏng gì đó. Khi chúng ta lớn hơn, ta (tức là cái “I” tiếng Anh) đáp lại cái nhìn của người khác bằng cách chấp nhận hay chối bỏ. Tổng số các giao tế này tích tụ lại thành một ý hay khái niệm ta là ai, ta có khả năng gì, ta xứng đáng ra sao, người khác nhìn ta như thế nào, và ta nhìn ta như thế nào. Khái niệm này luôn luôn thay đổi từ lúc sơ sinh cho tới khi già nua. Khái niệm về ta này có tính chất vô thường và chỉ hiện hữu trong tâm, ký ức và xúc cảm của ta như là cái nhìn của ta về chính ta và về người khác. Nó cho ta biết là thế giới bên ngoài thân thiện hay nguy hiểm, và ta phải liên hệđối phó với nó như thế nào. Khái niệm về ta liên hệ đến kinh nghiệm sống của ta trong cuộc đời này, tuy rằng Đức Phật cũng có dạy là ta cũng có kinh nghiệm sống nhiều đời trong quá khứ.

 

Cái “ta phàm phu” là sản phẩm luôn thay đổi của những giao tế của ta với người khác trong những vai trò mà ta đóng trong những nhóm mà ta tham gia trong cuộc đời này. Nhóm đầu tiên là cha mẹ chúng ta, và vai trò của ta trong đó là con sơ sinh. Khi chúng ta biết là ta có anh, chị, em thì ta có thêm một vai trò nữa là anh-chị-em. Lúc đó, cái ta bao gồm thêm các giao tế với những cá nhân khác trong gia đình và cách ta diễn dịch các giao tế này trong tâm ta, và từ đó nảy sinh một ý niệm phức tạp hơn về ta là ai. Ý niệm ta là ai này sau đó trở nên yếu đi khi ta bắt đầu giao tế với bạn bè, các học sinh khác và thầy cô trong trường. Khi chúng ta lớn hơn, ta tham gia vào nhiều nhóm khác và ta đóng nhiều vai trò khác nữa, do đó sự phức tạp của khái niệm về ta tăng thêm. Có nhóm có nhiều ảnh hưởng trên khái niệm về ta hơn những nhóm khác, vì chúng ta tham gia trong đó tích cực hơn. Có nhóm, tỷ dụ như gia đình, có tính cách thường hằng hơn nhóm khác, tỷ dụ như khi ta chỉ là một người mua hàng trong một tiệm bán thưc phẩm. Đương nhiên là các nhóm thường hằng hơn và quan trọng hơn có ảnh hưởng sâu đậm hơn trên khái niệm về ta.

 

NHỮNG VAI TRÒCHÚNG TA ĐÓNG TRONG MỘT ĐỜI NGƯỜI

Vai Trò Trong Đời Người

GHI CHÚ: Các vai trò quan trọng ở mỗi lứa tuổi được viết với chữ cái. Một người có thể có thêm nhiều vai trò khác. Có những vai trò quan trọng, có những vai trò chỉ ngắn hạn, tùy lứa tuổi. Mỗi cá nhân có một số vai trò cá biệt ở mỗi lứa tuổi. Những gì chúng tôi ghi trên đây là những vai trò thông thường nhất.

 

Chúng ta mang theo khái niệm về ta khi giao tế trong mỗi nhóm, do đó có cảm nhận cái ta này là thực mà ít khi nhận ra rằng nó chỉ là một tập hợp luôn luôn thay đổi của những giao tế mà ta kinh nghiệm khi ta đóng các vai trò ở một thời điểm nào đó. Các vai trò này thay đổi luôn luôn, chúng nhiều hơn hay ít đi tùy giai đọan trong cuộc đời, ít ở đầu đời và cuối đời và nhiều vào khoảng giữa. Khi chúng ta bắt đầu trưởng thành và bước vào tuổi trung niên, thì số vai trò lớn nhất và phức tạp nhất. Mức độ phức tạp của các giao tế của ta trong các nhóm ta tham gia quả thực là một điều đáng kinh ngạc. Do đó chúng ta không lấy làm lạ nếu đôi khi có những xung đột bên ngoài hay bên trong nội tâm xảy ra, bởi lẽ các nhóm mà ta tham gia chờ đợi những điều khác nhau nơi các thành viên. Sự chờ đợi này có khi được nói ra rõ ràng nhưng cũng có khi chỉ hiểu ngầm, và cũng có thể mâu thuẫn lẫn nhau. Các chờ đợi này thay đổi theo thời gian và theo các tình huống mà nhóm gặp phải. Do đó, thay đổi luôn luôn có mặt, và điều này có thể thách đố ta hoặc làm ta khó chịu. Ta kinh nghiệm những thăng trầm trong quan hệ của ta với các nhóm mà ta tham gia. Phật pháp nói về khổ, là một điều mà chúng tôi sẽ khai triển thêm ở phần sau bài này. Ở đây chúng ta có thể nhận ravai trò mà ta đóng trong những nhóm mà ta tham gia trong đời tạo nên nơi ta một khái niệm về ta nhưng cũng là nguồn gốc của không ít điều không thoải mái, bất toại nguyện, không hạnh phúc mà ta có thể gọi chung là khổ. Tuy những giao tế này đôi lúc có mang lại chút ít hạnh phúctoại nguyện, nhưng chúng luôn luôn thay đổi và do đó hạnh phúc có thể biến đi và bị thay thế bởi buồn khổ và thất vọng.

             

TỰ NGÃ

 

Phật pháp định nghĩa “tự ngã” khác với nhà phân tâm học nổi danh Sigmund Freud. Ông Freud cho rằng tự ngã (ego) là trung gian giữa phần thấp con ngườibản năng (id) và một phần cao thượng là lương tâm (conscience), giúp ta cân bằng hai phần tâm (mind) và hồn (psyche). Gần đây hơn các nhà tâm lý học coi tự ngã là một dụng cụ quan trọng giúp con người đáp ứng với hoàn cảnh xã hội. Họ cho rằng những người có tự ngã mạnh và tốt có “trọng điểm quyền lực ở bên trong”, tức là có tinh thần tự lậptự chủ, và có quan hệ tốt với chính mình. Trong khi đó, người có tự ngã yếu dễ bị người khác ảnh hưởng và lung lay vì họ có “trọng điểm quyền lực ở bên ngoài”, tức là họ có thể quá tuân phục quy ước xã hội, hoặc ngược lại họ bất chấp quy luật xã hội và có thể theo con đường phạm pháp. Có nhà tâm lý học cũng cho rằng những người có hành động phản xã hội thường là những người có tự ngã yếu hoặc thiếu tinh thần tự trọng. Do đó họ cho rằng trẻ em nên được khích lệ và nên có nhiều giao tế với người khác để chúng phát triển tinh thần tự hào và tự tin và từ đó tinh thần tự trọng (tức là có một hình ảnh tốt về tự ngã của mình), và một tự ngã mạnh và chắc chắn.

 

Trong khi đó, Phật Giáo thì coi tự ngã là thuộc tâm phàm phu và có nhiều điểm tương đồng với cái mà chúng tôi gọi là “cái ta” ở phần trên. Tư Ngã là khía cạnh chủ quan của cái ta (“I” tiếng Anh). Nó bao gồm nghiệp mà ta mang theo từ các kiếp trướcảnh hưởng cách ta cảm nhận và cư xử trong kiếp này. Đó là lý do vì sao có người có hành vi không khế hợp với cách họ được nuôi nấng hay nếp sống của họ trong kiếp này. Nghiệp ảnh hưởng cảm nhận và hành vi của ta, và ảnh hưởng này đa phần là vô thức, vì ta không biết tại sao ta lại cảm nhận một cách nào đó về sự việc, hoặc tại sao ta lại cảm nhận hay phản ứng một cách nào đó đối với chính ta và với người khác. Tự ngã tạo tinh thần cách biệt và khác biệt giữa ta và người khác. Đó là lý do vì sao tự ngã khiến ta cảm thấy tự hào và độc nhất, và tại sao nó muốn bảo vệ ta chống lại những thái độ và hành động mà nó không thích hay cho là đe dọa. Nó khởi lên sự tức giận để bảo vệ cái ta (cái ta khách quan) khi ta sợ hãi; nó khởi lên lòng tham khi cảm thấy có nhu cầu; nó khởi lên hành động và xúc cảm để đền bù cảm nhận thua kém, hoặc thiếu xót những gì được coi là cần (tức là những gì ta dính mắc). Do đó, tự ngã là thủ phạm của nhiều khổ đau trên đời này, khổ do dính mắc vào thói quen cũ (kể cả các thói quen từ các kiếp trước), khổ vì sợ hãilo lắng cho tương lai, khổ vì ước mơ không thành, khổ vì những thất vọng, hay khổ vì hối hận là trong quá khứ ta đã có hành vi sa đọa, bất thiện hay phá hoại. Dính mắc vào hiện tượng thế gianlý do tại sao chúng ta tiếp tục luân hồi sinh tử. Trong phần còn lại của bài này khi chúng tôi nói về cái “ta”, chúng tôi gom chung cả hai ý niệm “khái niệm về ta” và “tự ngã”.  

  

Sự trống rỗng của cái TA

 

Vì cái ta được hình thành do nhiều nhân duyên, nó thay đổi và bị diệt khi các nhân duyên thay đổi hay chấm dứt. Đây là đề tài của bài giảng của Đức Phật về quy luật nhân quả, mà Thiền Sư Thích Thông Triệt đã giải thích như sau:

 

“Lý Duyên Khởi trở nên một phần cốt lõi trong giáo lý của Đức Phậtxuất hiện trong nhiều bài kinh dưới tên Mười Hai Duyên Khởi hay Mười Hai Nhân Duyên. Đức Phật tóm tắt qua bốn câu:”

“Cái này có cái kia có

Cái này sinh, cái kia sinh

Cái này không cái kia không

Cái nài diệt, cái kia diệt”

 

Do đó cái ta chỉ là một khái niệm và không có hiện hữu riêng biệt. Cũng có nghĩa là nó rỗng không, huyễn hóavô thường. Cái ta là sản phẩm của tự ngã và tâm phàm phu. Nếu quý vị hỏi một người mô tả họ là ai ở một thời điểm nào đó, thì vị đó sẽ mô tả một cách khác hơn là ở một thời điểm khác.  Vậy có một “cái ta thường hằng và chân thực” không? Trong Phật Giáo Phát Triển, hệ Bát Nhã gọi là “Tự Ngã Hoàn Toàn Thanh Tịnh”, Ngài Long Thọ (thế kỷ thứ ba) gọi là Chân Ngã, và Ngài Thế Thân (thế kỷ thứ năm) gọi là Phật Tánh (Buddhata).  

 

Thiền Sư Thích Thông Triệt cũng giải thích là sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài quyết định đi giáo hóa. Bài pháp đầu tiên mà Ngài giảng là bài Tứ Diệu Đế (khổ đế, tập đế , diệt đế, và đạo đế tức là Bát Chính Đạo). Bài kinh này bắt đầu việc  chuyển bánh xe Chánh Pháp. “Đức Phật giảng bài kinh Vô Ngã Tướng sau khi thành đạo. Ngài giảng cho nhóm năm vị tu khổ hạnh do ngài Kiều Trần Như lãnh đạoĐức Phật đã cùng tu chung khi trước. Bài kinh Vô Ngã Tướng sau này được xếp cùng với bài kinh Tứ Diệu Đế thành bài kinh Chuyển Pháp Luân, được xếp vào Tương Ưng Bộ số 22:59. Sau được nghe giảng bài kinh Vô Ngã Tướng, năm vị tu khổ hạnh chứng ngộđắc quả A La Hán”.

  

Tâm phàm phu và cái ta

 

Khái niệm về ta tùy thuộc vào cách ta nghĩ và cảm nhận ta là ai. Sự suy nghĩ dùng khái niệm để mô tả vật, cảm xúc v.v nhưng khái niệm chỉ là những biểu tượng không có hiện hữu thực sự. Chữ dùng để mô tả cái ta không phải chính thực là cái gì ta là, chúng chỉ là những biểu tượng hay dấu hiệu mà thôi. Do đó cách chúng ta mô tả cái ta chỉ hiện hữu trong tâm ta mà thôi. Cảm xúc và cảm nhận ta là ai cũng vậy, chúng chỉ hiện hữu trong tâm ta dù chúng có thể khởi lên do cảm nhận thân nóng, lạnh, hay tự hào, nhục nhã v.v. Do đó khái niệm về ta dính liền với sự suy nghĩcảm xúc ta là ai. Tâm suy nghĩ đó cũng đầy rẫy kỷ niệm về kinh nghiệm cũ khiến ta nghĩ ta là ai. Kinh nghiệm này có thể tích cực khi chúng cho ta một cảm giác thoải mái, nhưng cũng có thể là kinh nghiệm tiêu cực. Những kỷ niệm về quá khứ này xen lẫn với nghiệp từ những kiếp trước tạo ảnh hưởng vô thức trên xúc cảm và cảm nhận ta là ai. Tầm quan trọng của kinh nghiệm quá khứ, cộng với kinh nghiệm trong kiếp hiện tại, là ở nơi chúng khiến ta cảm nhận, suy nghĩ và hành động theo một lối nào đó trong cuộc đời này, và do đó, lại tích lũy thêm nghiệp, tốt cũng như xấu. Trong phần sau của bài này, chúng tôi sẽ trình bày làm cách nào để ngăn chặn hoặc tiêu trừ được nghiệp tích lũy từ kiếp trước và khuynh hướng tích lũy thêm nghiệp mới trong kiếp này. Đây cũng là con đường thoát khổ mà Đức Phật đã đề ra.

          

Khổ là gì?

 

Khổ hay dukka là cảm nhận bất toại nguyện hoặc không thoải mái. Khổ không nhất thiết là một sự đau đớn lớn, tuy đau đớn lớn cũng là khổ, vì khổ cũng là sự không thoải mái nơi tinh thần hay thân xác. Khổ có thể là lòng mong muốn ở gần một người hay mong muốn được một cái gì mà hiện nay ta không có. Nó cũng là sự không ưng ý với tình trạng hiện tại, tỷ dụ như khi ta nôn nóng đợi cái gì tốt hơn, hay muốn được cái gì nhiều hơn, hoặc muốn có cái gì ít hơn. Nó cũng là lòng mong muốn không bị đau đớn thân thể hay bị dằn vặt tinh thần. Nó cũng là cảm giác mơ hồ về cái gì không ưng ý với tình cảnh hiện tại. Nó cũng là lòng lo lắng sẽ mất đi một cái gì ta đang có nhưng sợ sẽ mất đi trong tương lai. Nó cũng là cảm xúc giận giữ hay tức tối. Nó cũng là kỷ niệm không vui. Ngay cả sukka là hạnh phúc cũng có thể đưa tới dukka là khổ đau, vì khi ta đang hạnh phúc thì lại lo lắng là có lúc ta sẽ bị đau buồn. Và khi ta buồn thì ta lại mong là ta sẽ được hạnh phúc.  Do đó, khổ dính liền với thế giới nhị nguyên trong đó cứ hết thăng rồi lại trầm rồi lại thăng, hết vui lại buồn. Nhiều đau khổ của ta đến từ các vai trò mà ta đóng khi giao tế với người khác. Ta dính mắc vào vật, người và ý tưởngthể hiện sự dính mắc này qua cảm xúc giận giữ, xung đột, tranh giành, nóng nảy v.v  Đức Phật dạy rằng khổ là một sự thực tuyệt đối, con người ai cũng khổ. Khổ theo ta suốt đời, chúng ta ai rồi cũng bệnh và chết. Một điều đáng chú ý là đau khổ đến với ta khi ta thiết lập khái niệm về ta và tự ngã. Trong một phần sau của bài này chúng tôi sẽ nói về quan niệm của Đức Phật về khổ và làm sao diệt khổ.

 

Vô thường và khổ

 

Sự thay đổi cũng là một nguyên do đem lại khổ. Chúng tathể không toại nguyện với hoàn cảnh hiện tại, hoặc đang toại nguyện nhưng lại lo là hoàn cảnh sẽ thay đổi và trở nên tệ hơn. Mọi hiện tượng thế gian đều chịu luật vô thường. Quy luật vô thường được Đức Phật coi như một quy luật bất biến và là một trong ba đặc tính chung của mọi hiện tượng thế gianvô thường, khổ, và vô ngã. Ta kinh nghiệm vô thường khi ta bị bệnh, già hoặc chết. Chúng ta ai ai cũng thay đổi, ngay cả các tế bào trong cơ thể cũng thay đổi luôn luôn. Hoàn cảnh sống của chúng ta thay đổi luôn luôn, con người thay đổi ý, ta cũng quan sát được sự thay đổi trong trời đất qua sự vận hành của hành tinh và mùa màng. Ngay cả những gì có vẻ thường hằng như tảng đá hay nhà cửa chắc chắn cũng chịu sự thoái hóa và hủy diệt. Tuy thay đổi không nhất thiết tạo đau khổ, nhưng thay đổi có thể là một nguyên do đem lại đau khổ. Chúng ta đau buồn khi thấy cơ thể thay đổi khi ta già đi, ta đau đớn khi có sự thay đổi trong gia đình, như khi một người thân qua đời, hay một người trẻ rời nhà để đi vào trường đại học. Có khi chúng ta lo lắnghoàn cảnh tươi đẹp mà ta đang có sẽ thay đổi một cách bất lợi trong tương lai. Nhưng mặt khác chúng ta cũng có thể nôn nóng mong chờ ngày mà hoàn cảnh bất thuận lợi hiện tại của ta sẽ thay đổi. Chúng ta mong được giàu có, nổi tiếng và có thân hình đẹp đẽ và mong cuộc đời của ta sẽ thay đổi để có được những điều mà ta cho là tốt lành kia. Và khi chúng ta có được những gì ta mong muốn thì ta lại lo lắng sẽ mất chúng đi. Ngay cả khái niệm ta là ai (cái ta) cũng thay đổi và đem lại đau khổchúng ta không thích những thay đổi đó. Quan hệ của chúng ta với người khác thay đổi khi ta có những thay đổi trong gia đình, bằng hữu, và đồng nghiệp trong cuộc đời. Chúng ta lo sợ ngày mà người chúng ta thân yêu không còn nữa, hoặc ta nhớ những người bạn đã ra đi. Do đó quy luật vô thường ảnh hưởng suốt đời ta. Quy luật vô thường ảnh hưởng xác thân ta qua năm giác quan, nhưng quan trọng hơn là nó cũng ảnh hưởng đến tâm chúng ta. Tâm chúng ta lúc nào cũng thay đổi. Thói quen nói thầm trong não đem lại nhiều đau khổchúng ta cứ nhớ lại những kỷ niệm không vui trong quá khứ và lo ngai những gì có thể xảy ra trong tương lai. Những ý tưởng này có thể chiếm đa số những gì ta suy tưởng trong một ngày và do đó mang lại nhiều bất toại nguyện, lo lắng, và ngay cả bệnh trầm cảm và mặc cảm tội lỗi. Chúng ta nhận ra là các hoạt động đó của tâm, thể hiện qua lời nói thầm, tạo ra nhiều căng thẳng có thể đưa đến bệnh tâm thể. Nó cũng khiến tâm ta không được an lạc và tĩnh lặng. Chúng tôi sẽ bàn thêm ở phần dưới của bài cách làm chủ sự được sự nói thầm trong não. 

 

Đau khổ và phát triển tâm linh

 

Mặc dù đau khổ không thoải mái và có thể đau đớn, nhưng nó cũng là chất xúc tác để phát triển tâm linh. Ta học hỏi từ những lỗi lầm của ta, từ những đau khổ do lỗi lầm của ta tạo nên, và ta thay đổi cách ta suy nghĩ và hành động để cuộc đời khá hơn. Đau khổ không những là một cách để trả nghiệp, nó cũng giúp ta học hỏi để tiến bộ, trở nên từ bi hơn, ít chê bai hơn, rộng lượng hơn, tâm linh tỉnh ngộ hơn.

 

Ta bắt đầu hiểu rằng ta phải vượt qua những căn bệnh mà ta có trong tâm, và tất cả mọi người, đều cùng chung một cảnh ngộ. Ta không thể kinh thường những người đang đau khổ và có tâm bệnh, vì ta cũng giống như ai khác cần học hỏi từ những đau khổ do tâm bệnh gây nên.

 

Ta có thể không nhận ra rằng khổ là cái gì của riêng ta, vì chính ta mang lại đau khổ cho riêng ta tùy theo các nhu cầu của ta. Người khác không tạo đau khổ cho ta. Ta cần phải học một số bài học tâm linh, và ta hoặc cố ý hoặc vô tình tạo nên các điều kiện đem lại cho ta đau khổ để ta học được những điều ta cần học. Khi ta đã sẵn sàng học xong bài học thì đau khổ sẽ dứt đi, bằng không ta cứ phải học đi học lại, cho tới khi nào ta hiểu rõ mới thôi.

 

Với quan niệm này về khổ, ta hiểu rằng khổ là một tiến trình tự nhiên mà ai cũng kinh nghiệm khi sống trong cuộc đời này. Ai cũng kinh nghiệm khổ. Ta không cần bận tâm hay lo lắng là khổ có sẽ đến với ta không, vì nó sẽ đến khi “ta sẵn sàng”. Nếu ta chưa học xong bài học thì ta sẽ có đầy đủ thời giờ để học hoài cho đến khi ta hiểu rõ. Đây là một tiến trình thay đổi tâm trong đó ta hoàn toàn tỉnh ngộ và thấy rõ bản tính của ta và của tất cả chúng sinh là gì.

 

Trong phần sau đây chúng tôi sẽ trình bày vì sao khi ngũ quan và tâm tiếp xúc ngoại cảnh lại đem lại khổ đau.

 

Ngũ uẩn và khổ

 

Bát Nhã Tâm Kinh mô tả ngũ uẩn là sắc thọ tưởng hành thức. Sắc là phần thân thể gồm lục căn, còn tâm tạo nên thọ là cảm nhận và cảm giác, và tưởng, hành và thức. Qua thân và tâm chúng ta tiếp xúc với môi trường nơi ta sống. Sự tiếp xúc này cũng được gọi là “dính mắc” hay “ái dục”. Khi ta sinh ra, thân và tâm dần dần tạo nên khái niệm về ta. Quan niệm chủ quan về ta (chữ “I” trong Anh Văn) hay tự ngã được thành lập qua ngũ uẩn cho đến khi trở nên một cái ta có đủ khả năng giúp ta sống trong đời. Tự ngã là một cái gì quan trọng giúp ta sống trong đời, nhưng ở trong mỗi uẩn, nó cũng kết nối ta với ngoại cảnh qua dính mắc và ái dục. Dính mắc và ái dục bắt đầu từ lúc sinh ra và đem lại cho ta vừa toại nguyện vừa bất toại nguyện (hạnh phúc và buồn khổ). Nói cách khác là đem lại “khổ”. Ngay cả những gì ta cho là toại nguyện rốt cuộc rồi cũng chấm dứt và đem lại bất toại nguyện. Khi ta hạnh phúc, ta biết rằng khi hạnh phúc chấm dứt mình sẽ buồn khổ. Dính mắc và ái dụcchúng ta tích tụ qua ngũ uẩn là nguồn gốc khổ đau, và cũng là nguyên do tạo luân hồi sinh tử, như Bát Nhã Tâm Kinh đã dạy.

 

Thiền Sư Thích Thông Triệt mô tả như sau mối tương quan giữa ngũ uẩn, cái ta và khổ:

 

“Uẩn tiếng Pāli là khandha và tiếng sanskrit là skandha. Con người gồm có năm uẩn là thân (gọi là “sắc”) và bốn uẩn thuộc về tâm là thọ, tưởng, hành, thức. Tiềm ẩn dước năm uẩnnăng lượng của tự ngã và lậu hoặc khiến con người bị thu hút và dính mắc vào hiện tượng thế gian. Sư thu hút và dính mắc này tạo nên đau khổluân hồi sinh tử. Có một cách để cắt đứt vòng luân hồi sanh tử. Khi ngũ uẩn yên lặng khi tiếp xúc với đối tượng ngoại trầnnội trần, khi không có dính mắc bởi tự ngã, lúc đó ta sống trong tánh giác hay là chân tâm. Tâm này định tĩnh, an nhiênhân hoan. Nó khách quan, vô ngã, có từ bi và trí huệ”

 

Lậu hoặcThiền Sư Thích Thông Triệt đề cập đến là những thiếu sót của tâm và tâm bệnh khởi lên từ tự ngã và trói buộc ta vào cuộc đời và vòng luân hồi sinh tử.

 

“Mười Hai Nhân Duyên là mười hai điều kiện hợp lại thành một vòng xích nhân duyên (tiếng Pāli là nidāna). Nó là mười hai điều kiện hay mười hai mắt xích tạo nên đau khổluân hồi sinh tử.”

 

Một luận gia Phật Giáo sống vào thế kỷ thứ năm sau công nguyên là Ngài Phật Âm (tiếng Sanskrit là Buddhaghoṣa) đã chia mười hai mắt xích nhân duyên ra thành đời quá khứ, hiện tại và tương lai. Vô Minh và Hành là những nhân duyên ảnh hưởng cuộc đời hiện tại, do đó được xếp vào đời quá khứ. Tám nhân duyên sau đó, từ Thức đến Hữu, thuộc về đời hiện tại. Hữu là năng lượng đưa đến tái sinh, đó là đời tương lai gồm Sinh và Lão Tử.”

 

Mười hai nhân duyên họp thành một vòng khép kín, từ Vô Minh đến Sinh và Lão Tử. Mười hai nhân duyên luân chuyển không ngừng, tạo nên chuỗi sinh, khổ, chết và tái sinh là cuộc sống con người. Năng lực đằng sau các nhân duyênnăng lực biến dịch, cũng được gọi là Biến Dịch Tánh là một chân tánh hiện tượng thế gianĐức Phật đã nhận ra khi thành đạo. Quy luật biến dịch ảnh hưởng mọi hiện tượng thế gian trong mỗi giây phút.”

 

“Muốn chấm dứt khổ đau và luân hồi sinh tử, ta cần thực hành để cắt một trong những mắt xích. Khi một mắt xích bị cắt thì cả vòng nhân duyên không còn nữa”.

 

Đồ hình sau đây mô tả vòng Mười Hai Nhân Duyên.

 

Vòng 12 Nhân Duyên

Đồ hình trên đây cho thấy là ta kinh nghiệm thế giới qua ngũ uẩn, tạo nên cái ta phàm phu và tự ngã, từ đó đưa đến Hữu khiến ta đầu thai trở lại trong tương lai. Tiến trình này lập đi lập lại cho đến khi vòng xích bị cắt đứt. Điều này có thể được thực hiện như sau: 

 

Khổ đau chấm dứt khi ta nhận ra rằng các uẩn đều rỗng không, chúng không phải là cái ta thực sự như ta thường nghĩ. Các uẩn nối kết và trói buộc ta vào cuộc đời nhưng có thể bị cắt đứt khi ta có trí huệ (prajna) và nhận ra rằng các uẩn (mà ta dính mắc) chỉ huyễn hóa và tạm bợ. Chúng giống như một cầu vồng mà ta có thể quan sát trong một thời gian ngắn nhưng không thể nắm bắt được. Khi chúng ta nhận ra rằng ta vốn đã có sẵn một chân ngã khác với tự ngã (vốn được xây dựng trên các uẩn), thì ta vượt qua vòng luân hồi sinh tửchấm dứt khổ đau. Các uẩn tan biến khi ta thực hành niệm biết không lời. Chúng tôi sẽ nói thêm về điểm này trong phần sau của bài này.

 

Cái ta liên hệ ra sao với khổ?

 

Như chúng tôi đã trình bày ở phần trên, cái ta chủ quan (tức là tự ngã) được hình thành qua ngũ uẩn. Các uẩn tạo nên dính mắc, và do đó khổ đau. Mỗi người tự mình tạo nên đau khổ cho chính mình, bắt nguồn từ trong tâm. Dù cũng có những cái khổ đến cho cả một nhóm người, nhưng mỗi người trong nhóm chỉ kinh nghiệm nỗi khổ của riêng mình. Nói chung thì khổ được kinh nghiệm như một sự kiện cá nhân, nó độc nhất cho mỗi người, nhưng thường thì nỗi đau khổ của ta ảnh hưởng trên người khác và trở thành nỗi đau khổ của họ.  Chúng ta có thể thấy điều này nơi những khó khăn, xung đột, chiến tranh xảy ra đầy rẫy trên thế giới. Có khi cả một xã hội, cả một thời đại có thể coi như chịu khổ đau triền miên.

 

Cái gì trong cái ta liên hệ đến khổ? Thứ nhất là phần tự ngã của cái ta (tức là chữ “I” trong Anh Ngữ) cho rằng chúng ta khác biệt với người khác, và sự cách biệt này khiến ta muốn nối kết hay giao tế với xã hội vì ta cảm thấy cô đơn, hoặc ta muốn ở gần người ta thương v.v. Sau đó Tự Ngã muốn bảo vệ chống lại những gì nó coi là những tấn công từ bên ngoài, tỷ dụ như lời phỉ báng, than phiền, hay ngay cả sự bất nhã. Tự ngã coi những thứ này như khó chịu hay đe dọa, do đó ta cảm nhận chúng là khổ. Tự ngã cũng muốn xây dựng tinh thần tự trọng bằng cách chứng tỏ là ta khác hơn người khác, tốt hơn, giỏi hơn, khôn ngoan hơn, giàu có hơn, đẹp đẽ hơn v.v  Lòng “mong muốn” này khiến chúng ta không thỏa mãn với hiện thânhiện tình của mình, đó cũng là một nguồn khổ đau vì không thỏa mãn với những gì ta đang là và đang có trong hiện tại.

 

Buông bỏ đau khổ


Khi ta kinh nghiệm cái biết không có suy nghĩ và cái ta hòa nhập vào đại thể thì trạng thái đó được gọi là “vô tâm”. Trong quyển sách tựa đề “Vô Tâm”, ông D.T. Suzuki, đã trình bày trạng thái này một cách đầy đủ nhưng dễ hiểu. Vô Tâm là một trạng thái trống rỗng hay Śūnyatā trong đó không có cái ta biệt lập mà chỉ có sự cảm nhận thuộc vào một đại thể đồng nhất (tức là Chân Như). Đây chính là điều Đức Phật đã giảng khi Ngài mô tả chân tánh, hoặc Phật tánh, hoặc trạng thái giác ngộ. Đây là trạng thái hiện hữu ở một cảnh giới siêu vượt, chứ không phải là cảnh giới hữu hình mà ta kinh nghiêm khi sống trên cõi đời này. Vì không thể nào dùng lời để mô tả cảnh giới này nên cách duy nhấtchúng ta biết được nó là qua kinh nghiệm trực tiếp. Kinh nghiệm trực tiếp này có thể có được khi ta thực hành về niệm biết. Khi ta lần lượt trải qua các trạng thái biết, ta từ từ nhận ra rằng khái niệm ta là huyễn hóa, và nó tan biến đi khi ta vượt qua cảnh giới của hình thể. Đương nhiên là cái ta hay tự ngã hay “I” (tiếng Anh) rất bền bỉ và muốn sống còn, do đó ta sẽ thấy là cần phải đấu tranh để tiêu trừ nó đi. Tuy thế, điều này sẽ bớt khó nhọc khi ta thực hành đều đặnxây dựng cái biết, tỷ dụ như qua các cách thiền dùng niệm biết không lời.       

Thiền Sư Thích Thông Triệt giải thích vì sao sự nhận biết không lời giúp chúng ta đạt được huệ và do đó vượt qua được cái ta và tự ngã:

“Ta có thể đạt được Huệ bằng cách thiền về những chủ đề ngoài lý luận, và dùng nhận biết không lời để thể nhập các chủ đề siêu vượt như Chân Như, Không, Huyễn. Huệ được coi là tâm Phật trong đó không còn lậu hoặc. Huệ là cái biết không có suy nghĩ, không có phân biệt nhưng có trực giácchức năng phân tích của tiềm năng giác ngộ. Ta không thể tới đó bằng cách phát huy ý thc đến mức tột cùng, mà chỉ tới được bằng cách phát triển tiềm năng giác ngộ, tức là Phật Tánh. Tiềm năng giác ngộ tiềm tàng trong sự nhận biết không lời. Cái biết của nó không có nhị nguyên, không có dính mắc, và không có khái niệm ta và tự ngã.”

 

Cái ta và sự nhận biết – Ai biết và biết cái gì?

 

Như chúng tôi đã trình bày ở trên, lúc đầu khi ta kinh nghiệm sự nhận biết thì trong đó có cái ta vì ta quan sát những sự vật quanh ta. Chúng ta thấy ta ngăn cách với vật và người mà ta quan sát. Nếu ta thực tập thiền, thì ta có thể quan sát hơi thở, và các cảm nhận nơi thân thể hay ngoại cảnh như tiếng động, màu sắc, hình dáng, mùi v.v Lúc đầu ta “thấy” những sự vật trong ta và chung quanh ta như khác biệt với ta. Khi chúng ta thực tập nhận biết trong Thiền Tánh Không, ta tập quan sátkhông định danh các vật, cảm giác, tư tưởng mà ta quan sát, ta chỉ nhận biết chúng như ngoại vật. Ta cũng có thể nhận biết chính ta, tức là ta quan sát cái ta đang là nhân chứng và đang quan sát. Đương nhiên là ta quan sát các vật mà ta nhận biết ở giây phút ngay bây giờ, giống như ta đang xem một cuộn phim vậy. Ta chỉ nhìn mà không lượng giá, suy diễn, định danh hay suy nghĩ bất cứ điều gì về đối tượng ta quan sát. Chúng ta cũng không cố gắng nhớ những gì ta quan sát. Ta chỉ để các vật hiện lên trong vòng quan sát của ta, sinh hoạt rồi biến đi, mà không dán nhãn, phân tích, suy nghĩ hay ghi nhớ để có thể tìm lại trong tương lai. Do đó tâm ta yên lặng và kinh nghiệm quan sát của ta dính liền với hiện tại

Nhận biếtsuy nghĩ

 

Khi chúng ta mới bắt đầu tiến trình nhận biết, ta nghĩ về đối tượng ta quan sát, tuy rằng ta không nói điều gì mà chỉ yên lặng nhìn, nghe, xúc chạm, ngửi hoặc nhớ lại quá khứ v.v., và ta cũng dán nhãn, lượng định và “quán sát” chúng. Nhưng một khi ta phát triển khả năng nhận biết của ta hơn thêm, thì ta bỏ đi sự dán nhãn, lượng định và quán sát, tức là ta không còn suy nghĩ gì về đối tượng nữa. Ta cứ để các ý tưởng của ta biến đi một cách tự nhiên, lặng lẽ mà không tìm cách giữ chúng lại (dính mắc). Bước qua giai đoạn sau đó nữa, ta tập cách ngăn ngừa niệm khởi bằng cách ra mệnh lệnh “Không Nói”. Kỹ thuật này được Thiền Sư Thích Thông Triệt mô tả cặn kẽ trong các bài viết về Thiền Tánh Không và các phương pháp thiền. Chúng ta tập quan sát một cách thụ độngnhận biết vật, người, và cảm nhận trong lúc ta tích cực quan sát. Ta quan sát những gì xảy ra bên trong và chung quanh chúng ta (trong vùng nhận biết của ta). Hành động của chúng ta chỉ là nhận biếttỉnh thức. Thiền Sư Thích Thông Triệt gọi đây là sự nhận biết không lời. Tiến trình nhận biết không lời bắt đầu bằng cái biết có lời, như đã trình bày ở trên, và sau đó tiến sang sự nhận biết không lời về những cảm giác mà ta nhận được: nghe, thấy, xúc chạm. Bằng cách lập đi lập lại hai từ “Không Nói”, ta nghe chỉ biết nghe, thấy chỉ biết thấy, xúc chạm chỉ biết xúc chạm mà không có sự suy nghĩ, phân tích, lượng định, phân biệt trong tâm. Khi đó vùng nhận biết (tức là vùng tri giác tâm linh) của não bộ được kích động, đây là vùng của Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Xúc Chạm tức là Tánh Giác hay “Tâm Bậc Thánh”, khác với “Tâm Phàm Phu” phát xuất từ vùng tiền trán (vùng suy nghĩ). Tác động Tánh Giác qua kỹ thuật “Không Nói” giúp ta lưu trữ mã số “Không Nói” trong Tánh Nhận Thức Biết khi đó sẽ đóng cửa các cửa ngõ giác quan trong lúc thiền định. Khi đó ta đạt được Buddhita và bắt đầu khai mở trí huệ tâm linh tức là Phật tánh (Buddhata). Thiền Sư Thích Thông Triệt gọi tiến trình này là “Thiền Tánh Không.”

 

“Đúc Phật dạy rằng ta phải miên mật sống mỗi giây phút trong Nhận Biết Không Lời, ngày đêm không mệt mỏi để tỉnh thức sống mỗi giây phút trong bây giờ và ở đây. Muốn an trú trong Nhận Biết Không Lời, ta phải loại bỏ trong mỗi giây phút lời nói thầm cứ liên tục khởi lên trong não để truy tìm quá khứ, ước vọng tương lai và so sánh trong hiện tại. Nói thầm trong não là một quán tính ta đã huân tập từ khi sinh ra, do đó ta phải thực hành miên mật mới mong loại trừ được nó. Ngừng lời nói thầm trong não thì lập tức tánh giác hiển lộ, tâm ta lập tức ngừng lăng xăng chạy theo đối tượng và bóng đen tự ngã sẽ lui dần đi.”

 

Nhận biết tinh thuần – Không có chủ thể/khách thể, vô ngã

 

Khi khả năng và kỹ năng nhân chứng của chúng ta gia tăng, ta sẽ thấy là cái ta và tự ngã dần dần tan biến đi và khách thể cũng tan biến, tuy lúc nào ta cũng nhận biết những gì đang xảy ra, nhưng không có sự cách biệt giữa ta, tức chủ thể, và đối tượng của sự quan sát, tức là khách thể. Đây gọi là trạng thái Tâm Thuần Nhất. Trong đó chỉ có kinh nghiệm nhân chứng.  

 

Lúc đầu, ta vẫn có ý thức và dùng năm giác quan quan sát môi trường cùng các cảm nhận hay suy nghĩ khởi lên trong tâm, nhưng một khi ta tiến thêm thì tư tưởng, cảm xúccảm giác mờ dần đi. Đây là bước đầu kinh nghiệm cái ta phàm phu mất đi. Đây là tiến trình tẩy sạch các dính mắc trói buộc ta vào thế giới này và giữ ta trong vòng luân hồi sinh tử triền miên.

 

Cái ta chỉ là khái niệm trong tâm về “ta là ai” được hình thành qua những giao tế xã hội giữa ta và cha mẹ, anh chị em, bạn bè v.v trong tiến trình trưởng thành, từ lúc sơ sinh sang thuở thiếu niên, thanh niên và trung niên. Quan niệm ta là ai này (tức khái niệm về chính ta) càng ngày càng trở nên phức tạp hơn, phân định hơn và chắc chắn hơn, cho đến lúc ta tin là nó có thực. Hai ông Berger và Luchman quan niệmhiện thực được hình thành qua liên hệ xã hội. Khi chúng ta hành xử như là một chuyện gì có thực thì trong tâm ta chuyện đó trở nên thực.

 

Theo giáo lý Đức Phật (Pāli: dhamma, Sanskrit: dharma), khái niệm về ta tùy thuộc vào các giao tế và sinh hoạt của ta, nền văn hóa nơi ta sống v.v. Nó không có hiện hữu riêng biệt. Cái ta chủ quan (chữ Anh Văn “I”) là tự ngã. Tự ngã lúc nào cũng muốn xây dựngbảo vệ khái niệm về ta. Tự ngã đối phó với những gì nó cho là đe dọa khái niệm về ta, vì nó tin rằng đó chính là gì ta thực sự là. Đức Phật đã dạy là cái “vọng” ta đó chỉ có hiện hữu trong thế giới hiện tượng, tức là thế giớihình tướng nơi chúng ta sống trong cuộc sống thế gian này. Cái ta thực không phải là một thực thể riêng biệt mà là một phần của một tổng thể lớn hơn là Chân Như, trong đó chúng ta đều là một thành phần. Lục Tổ Huệ Năng nói “kiến tánh thành Phật”. Ông Suzuki, khi giải thích pháp của Lục Tổ, đã viết rằng “Vô thức hay tự tánh trở nên có ý thức (nhận biết) về chính nó qua Huệ”.

 

Thêm nữa, khi chúng ta tiến triển trên con đường tâm linh, ta từ từ nhận ra sự liên đới của ta với người khác. Ta kinh nghiệm một cách có ý thức sự liên đới này trong đời sống hàng ngày. Do đó, khi ta tu tập và  tiến triển thêm trên con đường tâm linh, khi năng lượng nhận biết gia tăng, ta chứng ngộ chân tánh của ta. Phật Giáo gọi là Phật Tánh. Đây là kết quả của thiền và tu tập, là ta nhận biết chân tánh của mình, tức là Phật Tánh, vốn tiềm tàng trong ta. Śūnyatā có nghĩa là rỗng không và Thiền Tánh Không đưa ta đến sự chứng ngộ là cái ta và tất cả hiện tượng thế gian đều rỗng không, như Đức PhậtThiền Sư Thích Thông Triệt đã dạy.

 

Khai mở hay khai triển khả năng và kỹ năng nhận biết dẫn ta xa hơnchỉ quan sát mà không có khái niệm ta. Khi kỹ năng thiền của ta khai triển đến mức độ vượt qua sự nhận biếtý thức, tức là khi thân và não bộ của ta vẫn nhận tín hiệu từ các giác quan như thấy, nghe, xúc chạm nhưng ta đã vượt qua trạng thái nhận biếtý thức các tín hiệu này, lúc đó ta sẽ tới giai đoạn biết tối hậu (tức là trí huệ tâm linh), ta đạt trạng thái Không Định hay Chân Như Định và khai mở Phật Tánh (tức giác ngộ) và trí huệ tâm linh. Khi đó ta sẽ kinh nghiệm:

 

“trực giác, linh cảm, sáng tạo, sáng kiến và tâm từ, bi, hỷ, xả là căn bản của huệ. Đây là mục tiêu của Bát Chánh Đạo, là thoát khổ”.

 

Bản dịch Anh Ngữ của các sách của Thiền Sư Thích Thông Triệt: Thiền dưới ánh sáng khoa học, Thiền và kiến thức thời đại, và Tiến trình tu chứngthành đạo của Đức Phật đã khai triển cặn kẽ tác dụng của nhận biết không lời và trí huệ trên thân, tâm và não bộ con người.

 

Vượt qua cái ta phàm phu dính vào hiện tượng thế gian

 

Khi chúng ta theo tiến trình đi từ cái biết có lời (tâm phàm phu) qua Tâm Bậc Thánh, và sau đó từ cái biết không lời sang tỉnh thức biết và nhận thức biết, thì ta vượt qua thế giớihình tướngkinh nghiệm một thế giới hay cảnh giới mới. Tuy thế, ta vẫn duy trì liên hệ với thế giớihình tướng. Tức là dù ta có chứng ngộ Phật Tánh (chân ngã), ta vẫn duy trì khả năng kinh niệm hình tướng. Do đó, ta không có mất gì hết, ta chỉ tiếp xúc được chiều sâu vô tướng của thực tại. Ta có thể hiện hữu cùng một lúc với tâm phàm phu (vọng ta) và thế giới vô tâm (chân ngã). Vô tâm nghe có vẻ lạ tai, nhưng nó là một thế giới siêu vượt trong đó ta kinh nghiệm sự nhận biết tối hậu tức Tâm Phật, với vô lượng hiểu biếtvô lượng đức tánh từ bi, hỷ, xả là những gì quá hiếm hoi trong thế giớihình tướng. Lúc đó, thế giớihình tướng trở nên như một cơn mộng, và thế giới siêu vượt trở nên thực tại

 

Tiến trình nhận biết tới Tâm Phật

(Tiến trình rũ bỏ Vọng Ngãkinh nghiệm Chân Ngã)

Tiến Trình Nhận Biết

Kinh nghiệm Tâm Bậc Thánh và ngộ TÂM PHẬT

 

Khi năng lực nhận biết của ta gia tăng, ta sẽ kinh nghiệm những lợi ích của sự tỉnh ngộ, như là ta để ý đến tâm linh nhiều hơn, bớt ham muốn vật chất, thêm từ bi, rộng lượng, thích thiền tập, và bớt nói/suy nghĩ. Khi ta khai mở tâm linhchứng ngộ Phật Tánh, ta sẽ kinh nghiệm các lợi ích này thường hơn. Đức Phật đã sống trong trạng thái gíac ngộ này một cách liên tục trong lúc Ngài vẫn sống trên cõi đời này.

 

Vô ngã, hết khổ đau

 

Ở phần trên của bài này, chúng tôi đã trình bày tiến trình cái ta hình thành ra sao, tiến trình khổ đau hình thành ra sao, và hai điều này liên hệ với nhau ra sao. Mặc dù ta không thể nói đau khổ chỉ đơn thuần do cái ta tạo nên, nhưng nguồn gốc của nó là ở ngũ uẩn là các phần kết nối chúng ta đến thế giới này qua thân và tâm ta. Mặc dù ngũ uẩn quan trọng vì chúng giúp ta kinh nghiệm thế giới này, bản chất của chúng là rỗng không, tạm bợ và huyễn hóa giống như là các kinh nghiệm khác về cõi đời này, như lời Đức Phật đã dạy.  Khi chúng ta nhận biết (tức chứng ngộ) điều này, đau khổ của ta vơi đi và cái ta do tự ngã và tâm nhị nguyên làm chủ cũng vơi đi. Chúng ta cảm thấy liên đới hơn với người khác và với Tổng Thể (Chân Như) mà tất cả chúng ta ai nấy đều là một thành phần.

 

sao kinh nghiệm cái biết không lời có thể thay đổi cuộc đời của ta khi ta còn sống trên thế giới này

 

Chúng ta khó hình dung làm sao có thể kinh nghiệm cái biết không lời một cách hoàn toàn khi chúng ta vẫn vật lộn với các đấu tranh hằng ngày. Ta có thể thực tập sinh hoạt tĩnh lặng này bất cứ lúc nào và ở đâu trong đời sống hàng ngày, và đó cũng là một cái cớ tốt để nghỉ ngơi một chút trong cuộc sống bận rộn. Khi chúng ta ăn, ta có thể “để ý” đến thức ăn và thôi không nói chuyện xã giao. Khi chúng ta lái xe, ta chỉ “để ý” đến việc lái xe thay vì nói chuyện điện thoại. Khi chúng ta đi bộ trên vỉa hè, ta có thể nhìn người khác, sinh hoạt chung quanh, nhà cửa, cây cối, bầu trời v.v. và để ý xem các vật đó như thế nào thay vì suy nghĩ về chúng, hay suy nghĩ về buổi hẹn sắp tới hay tiếc nuối một hành động nào đó đối với một người thân. Chúng ta sẽ học được cách quan sát mà không suy nghĩ. Đây là thầm nhận biết, hay nhận biết rỗng không (không lời nói).  

 

Phương pháp quan sát những việc qua lại quanh ta mà không xúc cảm, không xét đoán là một hành động giản dị nhưng rất hiệu lực giúp ta cảm nhận được những vật và kinh nghiệm kỳ diệuđẹp đẽ nơi môi trường và trong cuộc sống của ta. Từ đó nảy sinh nơi ta niềm biết ơn những gì ta có. Ta bớt mong mỏi chuyện gì khác xảy ra trong đời ta. Khi ta thực sự thấy người khác như là họ đang là, thì ta có thể hiểu họ hơn và họ ngược lại cũng sẽ hiểu ta hơn.

 

Khi chúng ta chấp nhận hoàn cảnh hiện tại của ta như nó là thì ta không bị thúc đẩy phải có thay đổi lớn, ta cảm thấy biết ơnthỏa mãn, tức là ta bớt khổ nếu nói theo từ ngữ Phật GiáoChấp nhận những gì ta có, chấp nhận ta thực sự là ai, và hoàn cảnh hiện tại của ta trong đời, đưa ta đến một thế giới mới, ngay trong lúc ta đang sống trong cái thế giới cũ này. Ta cảm thấy sinh động hơn, nhiều năng lực hơn, có một thái độ mới. Ta sáng suốt và hữu hiệu trong việc làm vì ta giảm đi thói làm nhiều thứ một lúc, và bớt đi tính cạnh tranhtham lam. Ta sẽ nhìn gia đình với con mắt khác, ta có thể chấp nhận mọi người trong gia đình như họ là, với tất cả các tật thói của họ. Và ta cũng sẽ chấp nhận chính ta như ta là, và biết rằng trong ta có tự tánh tâm linh thực sự của ta.

 

Thiền Sư Thích Thông Triệt có viết nhiều quyển sách mô tả tiến trình thành đạo của Đức Phật, cũng như là phương cách mà ta có thể dùng để noi theo Bát Chính Đạo để tẩy rửa tâm, rũ bỏ nghiệp và khai mở cái ta tiềm tàng và thực sự, tức là Phật Tánh. Mấu chốt là cái biết không lời. Trong chúng ta, có người thích khai triển sự nhận biết bằng cách tu thiền, và đây có lẽ là con đường tốt nhất, nhưng cũng có người cảm thấy mình không có thì giờ để ngồi thiền nhưng lại có thể ngừng lại nhiều khoảng ngắn trong ngày bận rộn để trở về với tĩnh lặng và nhận biết, và cũng có người thích tập nhận biết khi đang làm việc trong ngày. Có nhiều cách để ta tập thiền như khi đang đi, đang làm việc v.v Có nhiều cách để chúng ta tập gia tăng khả năng nhận biết, như chỉ giữ yên lặng, hoặc đọc bài viết này, hoặc đọc những quyển sách mà chúng tôi đề nghị ở cuối bài, các hành động này đều giúp ta bắt đầu con đường khai mở nhận biết. Nói một cách đơn giản, chúng ta chỉ cần bắt đầu quan sát hoàn cảnh hiện tại của mình, các sinh hoạt, đồ vật, người v.v trong cuộc đời mình. Chúng ta cũng có thể tập Thiền Tánh Không sẽ chỉ cho ta cách làm sao gia tăng năng lực nhận biết. Điều này sẽ giúp ta hiểu người khác hơn, gia tăng lòng biết ơnchấp nhận, và các điều này sẽ cho ta nhiều thỏa mãn hơn trong cuộc đời. Một khi chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình nhận biết (hay là Bát Chính Đạo như Đức Phật dạy) ta sẽ từ từ thấy có nhu cầu mở tâm ra hơn và thực tập nhiều hơn cái biết không lời, và tiến trình này sẽ dẫn ta đến đích tối hậuchứng ngộ chân tánh (chân ngã) của ta.  

 

 Đề nghị đọc thêm:

 

  • D.T. Suzuki: Vô Tâm
  • Bát Nhã Tâm Kinh, bản dịch Anh Ngữ của Thiền Sư Lok To
  • Kinh Vô Ngã Tướng, Tương Ưng Bộ, số 22:59
  • Thiền Sư Thích Thông Triệt: bản dịch Anh Ngữ các sách của Thầy: Thiền Dưới Ánh Sáng Khoa Học, Thiền và Kiến Thức Thời Đại (sẽ phát hành năm 2019) và Tiến Trình Tu ChứngThành Đạo của Đức Phật giảng cặn kẽ tác dụng của nhận biết không lời và trí huệ trên tâm, não bộ và cơ thể con người.

 

Website Anh Ngữ: www.sunyatameditation.org

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10 Tháng Ba 20244:31 CH(Xem: 328)
Các bạn hiền ơi, sáng nay, một buổi sáng mùa xuân, nắng ấm, hoa mai đang nở rộ trước sân Tổ đình, trời xanh và mây trắng. xin dâng tặng cho bạn ổ bánh Thiền Giới Định Tuệ, làm bằng cái Biết trong sáng của chân tâm.
13 Tháng Ba 20249:16 SA(Xem: 126)
Les quatre niveaux du jhana (état mental), à travers lesquels le Bouddha a réalisé la Triple Connaissance, sont également connus comme “les quatre niveaux du Samadhi”. C’est ainsi que nous comprenons que le Samadhi joue un rôle important dans le Zen bouddhiste. Il est le passage obligé pour l'exploration du vaste firmament de la Sagesse transcendante.
06 Tháng Ba 202410:36 SA(Xem: 365)
VIDEO Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: VẤN ĐỀ SINH TỬ ngày 17 tháng 2 năm 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
06 Tháng Ba 202410:20 SA(Xem: 236)
Nghĩa chữ “tu” không chỉ là sửa đổi hành động từ xấu sang tốt, mà chữ tu còn mang ý nghĩa là “thực tập” hay “hành trì” một pháp môn nào đó.
05 Tháng Ba 20242:20 CH(Xem: 258)
Research works from Dr. Michael Erb on the mapping of the brain of Master Reverend Thích Thông Triệt Những đo đạc sau cùng của Thiền sư Thích Thông Triệt đã được thực hiện vào ngày 8 và 9 tháng 6 năm 2013. Tôi tường trình ở đây một số kết quả từ những thực nghiệm này kết hợp với kỹ thuật chụp ảnh chức năng cộng hưởng từ (f-MRI) và điện não đồ (EEG, 256 channels).
28 Tháng Hai 20244:27 CH(Xem: 376)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: GẶP GỠ ĐẦU NĂM mùng 3 TẾT Giáp Thìn 2024 tại TỔ ĐÌNH TÁNH KHÔNG
27 Tháng Hai 20249:03 SA(Xem: 273)
La Sagesse, ici je veux dire le Vipassanā, la Vue profonde. Dans les limites de cet article, je passerai en revue le Satipaṭṭhāna sutta, Le récit de l’attention vigilante, extrait de la corbeille Nikāya. Bien que les gens disent toujours "Contemplation des Quatre Fondements de l’attention" et que, dans le sutra, il est aussi dit “Contempler le corps” (Kāya-anupassanā) etc. De nos jours les vénérables moines classent le sutra “Le récit de l’attention vigilante” dans le Vipassanā c'est à dire appartenant à la Sagesse. Donc, dans cet article, je le définirai aussi temporairement comme la Sagesse, c'est-à-dire utiliser la sagesse pour pratiquer
24 Tháng Hai 20249:13 CH(Xem: 449)
Tâm trong đạo Phật được giảng giải rất chi tiết tùy theo các tông phái trong đạo Phật. Bài viết này chỉ nhằm đáp ứng cho các Phật tử mới bắt đầu học Phật, giúp các bạn nhận ra tâm là gì?
22 Tháng Hai 20247:52 SA(Xem: 586)
Khi biết mà không dính với tất cả những pháp thế gian hạnh phúc hay phiền lụy, thì ngay khi đó tâm trở về trạng thái tĩnh lặng, cái biết tự tánh sẽ hiển lộ, đây là cái biết của trực giác. Cái biết trực giác này sẽ phát huy đến vô lượng, đưa người thực hành vượt qua bể khổ đến bờ giác ngộ giải thoát...
20 Tháng Hai 20243:56 CH(Xem: 576)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. Kỳ này bài viết chỉ rõ phương thức thực hành để chuyển đổi từ tâm phàm phu sang tâm bậc thánh. Nếu không nắm rõ kỹ thuật thực hành thì xem như đường tu bị bế tắc đành phải chờ một duyên lành vậy.
15 Tháng Hai 20247:20 SA(Xem: 746)
VIDEO: Ni sư Triệt Như Giảng Đại Chúng: MÓN QUÀ ĐẦU NĂM ngày mùng 2 TẾT Giáp Thìn 2024 tại THIỀN ĐƯỜNG TÁNH KHÔNG nam Cali
14 Tháng Hai 20243:55 CH(Xem: 458)
A propos de la contemplation, il existe plusieurs variantes. Dans ce qui suit, je n’aborderai que l'Anupassanā, qui consiste généralement à contempler les phénomènes du monde de manière continue pour en saisir leur nature ou leurs caractéristiques qui sont: l’impermanence, la souffrance, le non-soi.
14 Tháng Hai 20243:29 CH(Xem: 423)
Nach der erlangten Erleuchtung ging der Buddha zum Wildpark, um den fünf Brüdern des Ehrwürdigen Kondanna die ersten Dharma-Sutras zu predigen, darunter das Sutra *Die Merkmale des Nicht-Ich*
09 Tháng Hai 20249:04 SA(Xem: 439)
So geht ein Frühling nie zu Ende. Auch wenn er einen anderen Namen wie Sommer, Herbst oder Winter hat, ist er immer der Frühling im Geist eines jeden. Wenn wir ihn Frühling nennen, ist er der Frühling. Wenn wir ihn nicht Frühling benennen, gibt es dann keinen Frühling, und wenn es keinen Frühling gibt, gibt es keine Jahreszeiten.
06 Tháng Hai 20243:13 CH(Xem: 558)
Mùa xuân cũng vậy, không bao giờ chấm dứt, trong tâm mỗi người. Dù cho nó có tên là hạ, thu, hay đông đi nữa, nó cũng là xuân. Khi mình gọi là Xuân thì là Xuân của mình. Khi mình không gọi gì hết thì không có mình, cũng không có xuân, và cả thế gian cũng biến mất.
31 Tháng Giêng 202411:00 SA(Xem: 498)
Người sống trong Mùa Xuân Xuất Thế Gian này tâm trạng luôn vô tư, bình thản, an vui, tự tại trong mỗi sát-na. Trạng thái đó tương tục mãi từ sát-na này đến sát-na khác, và cứ thế mà hưởng mùa Xuân bất tận vĩnh cửu.
29 Tháng Giêng 20248:11 CH(Xem: 778)
Lời ngõ: Loạt bài viết về các tầng Thiền của Đức Phật được trích từ quyển sách "Tiến Trình Tu Chứng Của Đức Phật" do Hòa Thượng Thích Thông Triệt biên soạn; đã được phát hành lần đầu tiên năm 2005 và tái bản lần thứ nhì năm 2007. Mục đích của loạt bài viết này nhằm giúp cho Thiền sinh ôn lại phương thức thực hành đúng như lời Phật dạy. BBT
20 Tháng Giêng 20249:38 CH(Xem: 521)
Am 24.12 kamen eine Schülerin und ihre Familie mit einem Obstkorb zu Sunyata Chan Nhu zu Besuch. In der Nacht hat sie mir über ihr stressiges Leben erzählt: dem vielseitigen Berufsleben, den ganzen Tag nur den Bildschirm anzustarren, dann die lange, lästige Besprechung in der Firma, so dass sie die Stimme des Arbeitskollegen noch im Ohr hörte, als sie zu Hause ankam. Als ich das gehört habe, war ich traurig. Ist das Leben draußen so schwer?
16 Tháng Giêng 202412:47 CH(Xem: 796)
Ngoài cái chớp mắt “đang là”, tất cả thân, tâm và cảnh là của quá khứ, của tương lai hay của hiện tại, chúng nó chỉ là ảo ảnh, ảo giác trong ký ức, hay trong tưởng tượng mà thôi. Hoa đào sẽ nở mỗi mùa xuân, nhưng đóa hoa năm nay đâu phải là đóa hoa năm trước. Người ngắm hoa đào bây giờ cũng không phải là người ngắm hoa năm cũ.
16 Tháng Giêng 202410:39 SA(Xem: 555)
Les cinq entraves sont les cinq liens qui enchaînent l'esprit humain dans les afflictions, créant ainsi de nombreux karmas qui le conduisent vers le samsara. Ces obstacles obstruent notre clarté d'esprit de telle manière que nous sommes embrouillés par l'ignorance et incapables de s'éveiller.
09 Tháng Giêng 20247:40 CH(Xem: 1230)
Đầu mối của thoát khổ, giác ngộ, và giải thoát bắt đầu từ điểm làm chủ sự suy nghĩ. Không làm chủ được sự suy nghĩ, phiền não và khổ đau vẫn dai dẳng theo ta; “lửa tam độc vẫn cháy;” bệnh tâm thể khó tránh; yên vui trong gia đình khó thành tựu; an lạc và hài hòa trong cuộc sống bình thường không thể nào có; Sơ Thiền, cũng không thể nào kinh nghiệm được.
03 Tháng Giêng 20249:34 SA(Xem: 700)
Le coeur est le noyau, la quintessence. Il ne se trouve pas à l'extérieur. Si on le compare avec un arbre, ce ne sont ni les feuilles ni les branches, etc... mais le noyau de l'arbre. Ce coeur doit être condensé pour être appelé le coeur. Cependant, dans le bouddhisme, il existe de nombreux coeurs ou des principes fondamentaux. Pourquoi?
02 Tháng Giêng 202410:36 SA(Xem: 939)
Các em Thiền sinh đã tâm tình về cuộc sống của mình, cũng chịu nhiều áp lực: từ công việc quá phức tạp, bận rộn, suốt ngày dán mắt trên computer, rồi những giờ hội họp nặng nề dài đằng đẵng trong sở làm. Lúc trở về nhà lại còn mang theo lời nói, cử chỉ, thái độ không thân thiện của các nhân viên của mình. Lắng nghe các em tâm sự, mình thấy xót xa. Cuộc đời vất vả tới như vậy sao?
02 Tháng Giêng 202410:07 SA(Xem: 782)
Hôm nay tưởng niệm ngày Thầy rời xa chúng con tròn bốn năm. Chúng con tâm thành đảnh lễ Thầy một vị Ân Sư tôn kính. Lời tri ân xin được thay thế bằng sự cố gắng tu tập theo đúng Chánh pháp. Nguyện sống sao cho xứng đáng là đệ tử của Thầy.
25 Tháng Mười Hai 20238:25 SA(Xem: 892)
Mình chỉ sống thảnh thơi, cái tâm bình an, thanh thản, hiểu biết những định luật tụ nhiên này, giúp người khác cũng hiểu biết như mình, sống hài hòa cùng nhau. Thì đâu còn cái gì là tham sân si, cái gì là lậu hoặc, cái gì là biển khổ trần gian nữa.
21 Tháng Mười Hai 20233:51 CH(Xem: 861)
NIỆM, CHÁNH NIỆM, CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC Dù là những danh từ chết, thuật ngữ vẫn là những danh từ chuyên môn của một bộ môn. Tác dụng từ chuyên môn này nhắm giúp người mới bắt đầu đi vào ngành chuyên môn hiểu được thực chất các từ ngữ chết đó nói lên ý nghĩa gì, công dụng ra sao... Khi hiểu sai, sự dụng công của ta dễ dàng đưa đến sai. Tất nhiên kết quả sẽ trái với điều ta mong muốn
21 Tháng Mười Hai 202311:14 SA(Xem: 718)
Kiết sử là những sợi dây trói buộc, sai khiến chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nó sai xử chúng sanh làm việc này việc nọ, thiện có, ác có… tạo đủ thứ nghiệp, khiến chúng sanh phải chịu luân hồi sanh tử hết đời này sang đời khác để trả nghiệp quả đã gieo.
20 Tháng Mười Hai 20238:11 SA(Xem: 903)
Làm chủ sự suy nghĩ, đó là cách ta trực tiếp huấn luyện tâm trở nên yên lặng hay trở nên thuần thục. Nó không lăng xăng dao động vì những chuyện thị phi của thế gian. Tế bào não vùng suy nghĩ sẽ từ lần bị hạn chế dính mắc ngoại duyên. Ý hành, ngôn hành sẽ trở nên yên lặng. Tâm định sẽ trở nên vững chắc. Nếu thực sự đạt được làm chủ suy nghĩ, xem như ta làm chủ được sự di động của tâm.
13 Tháng Mười Hai 202311:24 SA(Xem: 888)
A lit incense stick in honor of Thầy. Minh Tuyền
13 Tháng Mười Hai 202311:05 SA(Xem: 815)
Alors, Bahiya, il faut t'entraîner ainsi: Dans ce qui est vu, il n'y aura que ce qui est vu; Dans ce qui est entendu, que ce qui est entendu; Dans ce qui est ressenti, que ce qui est ressenti; Dans ce qui est connu, que ce qui est connu.
06 Tháng Mười Hai 20239:29 SA(Xem: 853)
La Bouddhéité vient de nulle part. Elle ne s'inscrit pas dans la loi de la causalité des phénomènes. Nous ne pouvons pas découvrir d'où elle vient depuis que l'homme est apparu sur terre. La Bouddhéité est la conscience immanente, appelée conscience primordiale. C'est une connaissance non verbale, par opposition à la connaissance de l'intellect et de la conscience discriminante.
03 Tháng Mười Hai 20236:39 CH(Xem: 872)
AUDIO: HT THÍCH THÔNG TRIỆT Thực hiện VIDEO: NHƯ ANH Đạo tràng Toronto
30 Tháng Mười Một 20232:03 CH(Xem: 741)
Đôi nét Giới thiệu trường Đại Học Tuebingen Đức Quốc và Tiến sĩ Vật lý Michel Erb Nơi và Người đã chung sức cùng hòa thượng Thích Thông Triệt xác định các định khu não bộ lúc hành Thiền Các kết quả này đã được công bố trong 2 kỳ Hội Nghị Quốc Tế về Não Bộ (OHBM) năm 2010 tại Barcelona (Tây ban Nha) và năm 2011 tại Quebec (Canada)
03 Tháng Mười Một 202311:52 SA(Xem: 1198)
Vì căn cơ chúng sanh khác nhau, nên Đức Phật phương tiện thuyết ngũ thừa để giúp chúng sanh dần đạt được giải thoát tối hậu. Ngũ thừa Phật giáo ví như 5 loại xe: Nhân thừa và Thiên thừa - Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa và Bồ-Tát thừa
31 Tháng Mười 20233:40 CH(Xem: 1059)
Und wenn wir diese Weisheit erlangt haben, haben wir keinen Bedarf mehr an einem Weg, an ein Dharma oder an eine Tür, die zur Weisheit öffnet, da wir schon drin sind, in unserem natürlichen Haus.
26 Tháng Mười 202312:55 CH(Xem: 1041)
VIDEO Phóng Sự Kỳ Đo Não Bộ Hòa thượng THÍCH THÔNG TRIỆT tại Đại học Tuebingen Đức Quốc năm 2013 - Giới thiệu: Quang Chiếu - Quay phim: Tuệ Nguyên - Edit: Chúc Hải
17 Tháng Mười 202311:23 SA(Xem: 1830)
Trong cái thấy, chỉ là cái thấy; trong cái nghe, chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, chỉ là cái thức tri.
10 Tháng Mười 20239:31 CH(Xem: 1314)
Stuttgart est une petite ville du sud de l'Allemagne. La retraite étant bilingue allemand-vietnamien, M. Tuong Bach, Mme Minh Tuyen et Minh Kien assuraient la traduction simultanée à tour de rôle. Il y avait environ 25 méditants, venant de nombreux endroits. De Paris, ils avaient voyagé en train. De Berlin, ils s’étaient regroupés pour venir en voiture. De Goslar, ils avaient fait environ 8 heures de route pour venir au monastère.
03 Tháng Mười 202310:36 SA(Xem: 1291)
Die Weisheit, über die ich hier sprechen will, ist ein Vipassanā. In diesem Artikel möchte ich die Grundlagen der Achtsamkeit in dem Nikāya-Sutra untersuchen. Heute klassifizieren viele Ehrwürdige das Satipatthana Sutra als ein Vipassanā, also eine Weisheit. Aus diesem Grund betrachte ich in diesem Artikel das Wort Vipassanā als eine Weisheit. Eine Weisheit für die Praxis.
26 Tháng Chín 20234:27 CH(Xem: 1754)
Trên bước đường tu theo Phật, “Hạnh buông xả” đóng một vai trò vô cùng quan trọng, là pháp tu cần thiết trong đời sống hằng ngày của người cư sĩ cũng như của người xuất gia tu hành giải thoát. Vậy thế nào là “Hạnh buông xả”?
19 Tháng Chín 20237:54 CH(Xem: 1732)
Bản thể của thế gian là trống rỗng, trống không, là như huyễn mà thôi. Tuệ trí này là năng lực khiến tâm xa rời dính mắc tất cả thế gian, bấy giờ mới an trú chánh niệm Như Vậy. Khi mình có tuệ trí thông suốt bản thể thế gian rồi thì không còn con đường, không cần pháp môn, không còn thấy có cổng nào nữa. Mình thực sự đang ở trong nhà của mình, tự thuở nào cho tới bây giờ.
12 Tháng Chín 202312:56 CH(Xem: 1911)
Bốn tầng Thiền qua đó đức Phật phát huy ba minh còn được gọi là bốn tầng Định, do đó mình hiểu Định có một vai trò quan trọng trong Thiền Phật giáo, xem như Định là cây cầu phải bước qua mới có thể khám phá tới khung trời bao la của trí tuệ bát nhã.
69,256